Đối xử với kéo co như thế nào để thực sự là di sản nhân loại?
Dân
trí Việc nghi lễ kéo co truyền thống của Việt Nam được Unesco công nhận
là di sản văn hoá phi vật thể của nhân loại là niềm vui, niềm tự hào đối với
người dân Việt Nam. Tuy nhiên, chúng ta nên đối xử với loại hình di sản này như
thế nào để xứng với tầm vóc của di sản nhân loại cũng là chuyện cần phải bàn.
>> Kéo
co Việt Nam chính thức trở thành Di sản của nhân loại
>> Xin
làm hồ sơ Di sản văn hóa nhân loại cho Chầu văn và kéo co
TS. Lê Thị Minh Lý, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Phát
huy giá trị Di sản văn hóa - người đã có nhiều năm nghiên cứu và tìm hiểu về
nghi lễ kéo co ở Việt Nam. Bà đồng thời là một trong những người đại diện cho
Việt Nam có bài tham luận trong một hội thảo về nghi lễ kéo co tại Hàn Quốc năm
2012. Trong quá trình Việt Nam xây dựng hồ sơ về nghi lễ kéo co, TS. Lê Thị Minh
Lý cũng là người đã tham gia đề xuất ý tưởng. Trước câu chuyện nên đối xử với
nghi lễ kéo co như thế nào để xứng với tầm vóc của một di sản nhân loại, bà Lý
đã có những chia sẻ rất chân tình với PV Dân
Trí.
TS. Lê Thị Minh Lý, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Phát
huy giá trị Di sản văn hoá. Ảnh: Tùng Long.
Bà
cảm thấy thế nào khi kéo co của Việt Nam cùng kéo co của Hàn Quốc, Philipine,
Campuchia đã được Unesco công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của
nhân loại?
Đây là niềm vui, niềm tự hào mà bất kỳ người dân hay
người làm công tác nghiên cứu, bảo tồn, phát huy di sản nào cũng chờ đợi. Tuy
nhiên, tôi không bất ngờ lắm vì tôi là một trong những người tham gia đề xuất ý
tưởng khi làm hồ sơ về nghi lễ kéo co Việt Nam. Đây là hồ sơ di sản đa quốc gia
đầu tiên mà Việt Nam tham gia.
Unesco chủ trương khuyến khích các quốc gia có những di
sản văn hóa có nét giống nhau bên cạnh những sắc thái riêng để cùng nhau lập hồ
sơ. Nhờ hình thức làm di sản đa quốc gia này mà Việt Nam hai năm liền có hai di
sản được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại (Ví Giặm Nghệ
Tĩnh và nghi lễ kéo co).
Là
người từng có nhiều năm nghiên cứu về di sản này, theo bà sự giống và khác nhau
giữa nghi lễ kéo co Việt Nam, Philipine, Hàn Quốc và Campuchia được thể hiện như
thế nào?
Nghi lễ kéo co của 4 nước kể trên giống nhau ở chỗ đây là
một tập quán xã hội có tính nghi lễ liên quan đến nền văn minh lúa nước. Nó là
biểu tượng của mùa màng bội thu, của sự sinh sôi nảy nở và của sự cố kết cộng
đồng... Ở một số nơi trên 4 nước này đến tận bây giờ vẫn còn tồn tại tính chất
nghi lễ cổ xưa gắn liền với hình thức kéo co này. Tính chất nghi lễ này giúp
chúng ta phân biệt kéo co khác với trò chơi kéo co thể thao thông thường. Nghi
lễ kéo co chứa đựng một tầng sâu văn hóa thể hiện bằng những tập tục và tín
ngưỡng. Người ta tin rằng, có thực hành nghi lễ ấy, tuân thủ những luật lệ ấy
trong lễ hội thì năm ấy mùa màng mới bội thu, chăn nuôi trồng trọt mới sinh sôi
nảy nở, cuộc sống mới tốt đẹp.
Một trong những cảnh thực hành nghi lễ kéo co trong hội
làng ở Long Biên (Hà Nội). Ảnh: Trung tâm Nghiên cứu và phát huy giá trị Di sản
văn hoá.
Còn khác là về hình thức biểu hiện. Ở Hàn Quốc, hầu hết
các thị trấn ở các vùng nông nghiệp đều tổ chức nghi lễ và trò chơi kéo co.
Người Hàn kéo co bằng sợi dây to như cột đình, hàng trăm người ôm. Sợi dây ấy
được bện bằng rơm rất kỳ công. Khi kéo, họ không chỉ kéo trong mấy chục phút mà
kéo cả ngày, kéo đi rồi kéo lại, cả làng ra kéo. Năm nào không may sợi dây ấy bị
đứt thì người ta cho năm đó không vui, xúi quẩy.
Ở Philipine lại chủ yếu kéo co dưới nước, dưới sông. Ở
Campuchia kéo co có từ rất sớm. Nó thể hiện rõ trong các hình vẽ và phù điêu ở
đền chùa Angkor. Người dân Campuchia quan niệm sợi dây kéo là biểu tượng của rắn
thần và người ta có hẳn một tích chuyện về điều này… Mỗi quốc gia đều có một
hình thức thể hiện khác nhau nhưng nhất quyết không phải là thể thao thuần
tuý.
Việc nghi lễ kéo co được công nhận là di sản nhân loại
rất có ý nghĩa vì nó góp phần làm cho cộng đồng 4 nước xích lại gần với nhau,
chia sẻ với nhau một nét văn hoá, một tập quán để từ đó hiểu biết nhau hơn, tăng
cường hơn nữa tính cố kết cộng đồng.
Ở
Việt Nam hiện nghi lễ kéo con còn tồn tại ở những địa phương nào và hình thức
giữ gìn, thực hành di sản này ra sao, thưa bà?
Ở Việt Nam, nghi lễ kéo co tập trung hầu hết ở vùng trung
du, đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ - đây là vùng đất tụ cư lâu đời của
người Việt, là cái nôi của nền văn minh lúa nước. Trong quá trình đi điền dã
chúng tôi mới chỉ phát hiện nghĩ lễ kéo co ở các tỉnh Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Hà
Nội, Lào Cai. Ngoài ra, di sản này cũng được thực hành thường xuyên ở cộng đồng
của các dân tộc ít người như: Tày (Tuyên Quang), Giáy (Lào Cai) và Thái (Lai
Châu). Đây vốn là những cư dân trồng lúa sớm trong lịch sử.
Nghi lễ kéo co của Việt Nam thường gắn liền với các lễ
hội truyền thống và môi trường thực hành thường là trước cửa đình, đền. Tuy
nhiên, bây giờ đời sống phát triển, quy hoạch lại nông thôn nên bà con không còn
không gian để thực hành kéo co theo đúng tập quán xã hội của nó nữa. Bây giờ
người ta buộc phải kéo nhau ra khu vực sân vận động để thực hành kéo co. Cái đó
khiến nghi lễ kéo co trở thành trò chơi phát triển về văn hóa thể thao thuần
tuý, mà mai một đi nét văn hóa của di sản.
Nghi lễ kéo co (còn gọi kéo mỏ) ở Sóc Sơn (Hà Nội). Ảnh:
Trung tâm Nghiên cứu và phát huy giá trị Di sản văn hoá.
Nhiều
ý kiến cho rằng, mặc dù đã được Unesco công nhận là di sản nhưng thực tế nghi lễ
kéo co ở Việt Nam đang tồn tại tự phát trong dân gian chứ chưa được cơ quan quản
lý văn hóa quan tâm đúng mức. Bà nghĩ sao về điều này?
Đó là những tồn tại về mặt nhận thức. Đôi khi chúng ta
nhận thức di sản là một cái gì đó phải thật tiêu biểu, nổi bật, khác lạ, hoành
tráng… Vì thế những cái gì nhỏ hơn chúng ta lại xem nhẹ hoặc bình thường hóa đi.
Trong khi di sản có nhiều hình thái khác nhau, có những di sản rất tỏa sáng về
quy mô và cách biểu hiện nhưng cũng có những di sản âm thầm như những dòng suối
chảy trong đời sống. Những thứ trở thành di sản vì thực sự có ý nghĩa đối với
mọi người.
Vì thế, chúng ta phải thay đổi quan niệm về di sản. Di
sản không chỉ là những lễ hội hoành tráng, những nghệ thuật trình diễn có thể
nhìn thấy rõ ràng hoặc các nghề thủ công truyền thống lâu đời… mà cả những thứ
rất đỗi giản dị trong đời sống. Và chúng ta cần tất cả. Chúng ta cần những di
sản to lớn và cả những di sản bình dị bởi đó là bản sắc, văn hoá, là kết tinh
của đời sống con người Việt Nam.
Unesco khuyến nghị chúng ta cần phải đối xử công bằng với
tất cả các di sản. Đừng nghĩ rằng cái to mới là của nhân loại. Những cái nhỏ bé
chỉ diễn ra 30 phút đến 1 tiếng trong một lễ hội làng dù chưa bao giờ được xem
trọng nhưng lại là một sắc thái văn hoá, một tập quán xã hội, một nét mỹ tục…
rất đỗi thiêng liêng. Nó có ý nghĩa với một nhóm cộng đồng đó và người ta gìn
giữ từ bao đời nay. Bây giờ chúng ta lại có cơ hội chia sẻ với những nước khác
có chung tập quán văn hóa này thì càng phải quan tâm nhiều hơn. Quan tâm như thế
nào đó là trách nhiệm của không chỉ cơ quan quản lý văn hóa mà tất cả mọi người
dân.
Cảnh kéo song ở Vĩnh Phúc. Ảnh: CDS.
Thực
tế, bây giờ nghi lễ kéo co đã là di sản của nhân loại, vậy chúng ta cần phải đối
xử với di sản này như thế nào để xứng đáng với tầm vóc của nó, thưa
bà?
Trước hết, chúng ta phải xác định, việc ghi nhận này cho
ai? Cho chính những người dân ở chung một cộng đồng ấy, cho chính những người
nắm giữ nghi lễ kéo co này. Đây là một cơ hội để họ nhận kéo co chính là di sản.
Điều này vô hình chung đặt lên vai họ một trách nhiệm phải làm thế nào để giữ
gìn và phát huy di sản văn hóa này một cách tốt hơn. Làm tốt hơn không có nghĩa
đem di sản này ra làm một cách giống nhau, như việc người ta đem Quan họ ra hát
tập thể... Đấy không phải là cách giữ gìn tốt nhất, càng không phải là cách giữ
mà Unesco mong muốn. Điều quan trọng là chúng ta phải di sản của mình rồi từ đó
có những thực hành sáng tạo hơn. Cái gì đã mai một nhưng còn có thể phục hồi
được thì chúng ta nhất định phải phục hồi. Ví dụ những tập quán, những nghi lễ
liên quan đến kéo co.
Chúng tôi từng có những kiến nghị đối với kéo song ở Vĩnh
Phúc là phải phục hồi lại kéo song nghi lễ, chứ không khuyến khích kéo song theo
kiểu thể thao như bây giờ.
Tiếp nữa, để bảo vệ di sản này các cơ quan quản lý văn
hóa từ địa phương đến trung ương cũng cần phải có sự đầu tư cho bà con. Ví dụ,
muốn kéo co phải có không gian. Ở Long Biên, vì không có không gian nên người ta
phải thực hành nghi lễ kéo ngay trên sân đình hoặc phải đi thuê một bãi đất
trồng rau để thực hành nghi lễ này.
-
-
TS. Lê Thị Minh Lý, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Phát
huy giá trị Di sản văn hóa - người đã có nhiều năm nghiên cứu và tìm hiểu về
nghi lễ kéo co ở Việt Nam. Bà đồng thời là một trong những người đại diện cho
Việt Nam có bài tham luận trong một hội thảo về nghi lễ kéo co tại Hàn Quốc năm
2012. Trong quá trình Việt Nam xây dựng hồ sơ về nghi lễ kéo co, TS. Lê Thị Minh
Lý cũng là người đã tham gia đề xuất ý tưởng. Trước câu chuyện nên đối xử với
nghi lễ kéo co như thế nào để xứng với tầm vóc của một di sản nhân loại, bà Lý
đã có những chia sẻ rất chân tình với PV Dân
Trí.
TS. Lê Thị Minh Lý, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Phát
huy giá trị Di sản văn hoá. Ảnh: Tùng Long.
Bà
cảm thấy thế nào khi kéo co của Việt Nam cùng kéo co của Hàn Quốc, Philipine,
Campuchia đã được Unesco công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của
nhân loại?
Đây là niềm vui, niềm tự hào mà bất kỳ người dân hay
người làm công tác nghiên cứu, bảo tồn, phát huy di sản nào cũng chờ đợi. Tuy
nhiên, tôi không bất ngờ lắm vì tôi là một trong những người tham gia đề xuất ý
tưởng khi làm hồ sơ về nghi lễ kéo co Việt Nam. Đây là hồ sơ di sản đa quốc gia
đầu tiên mà Việt Nam tham gia.
Unesco chủ trương khuyến khích các quốc gia có những di
sản văn hóa có nét giống nhau bên cạnh những sắc thái riêng để cùng nhau lập hồ
sơ. Nhờ hình thức làm di sản đa quốc gia này mà Việt Nam hai năm liền có hai di
sản được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại (Ví Giặm Nghệ
Tĩnh và nghi lễ kéo co).
Là
người từng có nhiều năm nghiên cứu về di sản này, theo bà sự giống và khác nhau
giữa nghi lễ kéo co Việt Nam, Philipine, Hàn Quốc và Campuchia được thể hiện như
thế nào?
Nghi lễ kéo co của 4 nước kể trên giống nhau ở chỗ đây là
một tập quán xã hội có tính nghi lễ liên quan đến nền văn minh lúa nước. Nó là
biểu tượng của mùa màng bội thu, của sự sinh sôi nảy nở và của sự cố kết cộng
đồng... Ở một số nơi trên 4 nước này đến tận bây giờ vẫn còn tồn tại tính chất
nghi lễ cổ xưa gắn liền với hình thức kéo co này. Tính chất nghi lễ này giúp
chúng ta phân biệt kéo co khác với trò chơi kéo co thể thao thông thường. Nghi
lễ kéo co chứa đựng một tầng sâu văn hóa thể hiện bằng những tập tục và tín
ngưỡng. Người ta tin rằng, có thực hành nghi lễ ấy, tuân thủ những luật lệ ấy
trong lễ hội thì năm ấy mùa màng mới bội thu, chăn nuôi trồng trọt mới sinh sôi
nảy nở, cuộc sống mới tốt đẹp.
Một trong những cảnh thực hành nghi lễ kéo co trong hội
làng ở Long Biên (Hà Nội). Ảnh: Trung tâm Nghiên cứu và phát huy giá trị Di sản
văn hoá.
Còn khác là về hình thức biểu hiện. Ở Hàn Quốc, hầu hết
các thị trấn ở các vùng nông nghiệp đều tổ chức nghi lễ và trò chơi kéo co.
Người Hàn kéo co bằng sợi dây to như cột đình, hàng trăm người ôm. Sợi dây ấy
được bện bằng rơm rất kỳ công. Khi kéo, họ không chỉ kéo trong mấy chục phút mà
kéo cả ngày, kéo đi rồi kéo lại, cả làng ra kéo. Năm nào không may sợi dây ấy bị
đứt thì người ta cho năm đó không vui, xúi quẩy.
Ở Philipine lại chủ yếu kéo co dưới nước, dưới sông. Ở
Campuchia kéo co có từ rất sớm. Nó thể hiện rõ trong các hình vẽ và phù điêu ở
đền chùa Angkor. Người dân Campuchia quan niệm sợi dây kéo là biểu tượng của rắn
thần và người ta có hẳn một tích chuyện về điều này… Mỗi quốc gia đều có một
hình thức thể hiện khác nhau nhưng nhất quyết không phải là thể thao thuần
tuý.
Việc nghi lễ kéo co được công nhận là di sản nhân loại
rất có ý nghĩa vì nó góp phần làm cho cộng đồng 4 nước xích lại gần với nhau,
chia sẻ với nhau một nét văn hoá, một tập quán để từ đó hiểu biết nhau hơn, tăng
cường hơn nữa tính cố kết cộng đồng.
Ở
Việt Nam hiện nghi lễ kéo con còn tồn tại ở những địa phương nào và hình thức
giữ gìn, thực hành di sản này ra sao, thưa bà?
Ở Việt Nam, nghi lễ kéo co tập trung hầu hết ở vùng trung
du, đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ - đây là vùng đất tụ cư lâu đời của
người Việt, là cái nôi của nền văn minh lúa nước. Trong quá trình đi điền dã
chúng tôi mới chỉ phát hiện nghĩ lễ kéo co ở các tỉnh Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Hà
Nội, Lào Cai. Ngoài ra, di sản này cũng được thực hành thường xuyên ở cộng đồng
của các dân tộc ít người như: Tày (Tuyên Quang), Giáy (Lào Cai) và Thái (Lai
Châu). Đây vốn là những cư dân trồng lúa sớm trong lịch sử.
Nghi lễ kéo co của Việt Nam thường gắn liền với các lễ
hội truyền thống và môi trường thực hành thường là trước cửa đình, đền. Tuy
nhiên, bây giờ đời sống phát triển, quy hoạch lại nông thôn nên bà con không còn
không gian để thực hành kéo co theo đúng tập quán xã hội của nó nữa. Bây giờ
người ta buộc phải kéo nhau ra khu vực sân vận động để thực hành kéo co. Cái đó
khiến nghi lễ kéo co trở thành trò chơi phát triển về văn hóa thể thao thuần
tuý, mà mai một đi nét văn hóa của di sản.
Nghi lễ kéo co (còn gọi kéo mỏ) ở Sóc Sơn (Hà Nội). Ảnh:
Trung tâm Nghiên cứu và phát huy giá trị Di sản văn hoá.
Nhiều
ý kiến cho rằng, mặc dù đã được Unesco công nhận là di sản nhưng thực tế nghi lễ
kéo co ở Việt Nam đang tồn tại tự phát trong dân gian chứ chưa được cơ quan quản
lý văn hóa quan tâm đúng mức. Bà nghĩ sao về điều này?
Đó là những tồn tại về mặt nhận thức. Đôi khi chúng ta
nhận thức di sản là một cái gì đó phải thật tiêu biểu, nổi bật, khác lạ, hoành
tráng… Vì thế những cái gì nhỏ hơn chúng ta lại xem nhẹ hoặc bình thường hóa đi.
Trong khi di sản có nhiều hình thái khác nhau, có những di sản rất tỏa sáng về
quy mô và cách biểu hiện nhưng cũng có những di sản âm thầm như những dòng suối
chảy trong đời sống. Những thứ trở thành di sản vì thực sự có ý nghĩa đối với
mọi người.
Vì thế, chúng ta phải thay đổi quan niệm về di sản. Di
sản không chỉ là những lễ hội hoành tráng, những nghệ thuật trình diễn có thể
nhìn thấy rõ ràng hoặc các nghề thủ công truyền thống lâu đời… mà cả những thứ
rất đỗi giản dị trong đời sống. Và chúng ta cần tất cả. Chúng ta cần những di
sản to lớn và cả những di sản bình dị bởi đó là bản sắc, văn hoá, là kết tinh
của đời sống con người Việt Nam.
Unesco khuyến nghị chúng ta cần phải đối xử công bằng với
tất cả các di sản. Đừng nghĩ rằng cái to mới là của nhân loại. Những cái nhỏ bé
chỉ diễn ra 30 phút đến 1 tiếng trong một lễ hội làng dù chưa bao giờ được xem
trọng nhưng lại là một sắc thái văn hoá, một tập quán xã hội, một nét mỹ tục…
rất đỗi thiêng liêng. Nó có ý nghĩa với một nhóm cộng đồng đó và người ta gìn
giữ từ bao đời nay. Bây giờ chúng ta lại có cơ hội chia sẻ với những nước khác
có chung tập quán văn hóa này thì càng phải quan tâm nhiều hơn. Quan tâm như thế
nào đó là trách nhiệm của không chỉ cơ quan quản lý văn hóa mà tất cả mọi người
dân.
Cảnh kéo song ở Vĩnh Phúc. Ảnh: CDS.
Thực
tế, bây giờ nghi lễ kéo co đã là di sản của nhân loại, vậy chúng ta cần phải đối
xử với di sản này như thế nào để xứng đáng với tầm vóc của nó, thưa
bà?
Trước hết, chúng ta phải xác định, việc ghi nhận này cho
ai? Cho chính những người dân ở chung một cộng đồng ấy, cho chính những người
nắm giữ nghi lễ kéo co này. Đây là một cơ hội để họ nhận kéo co chính là di sản.
Điều này vô hình chung đặt lên vai họ một trách nhiệm phải làm thế nào để giữ
gìn và phát huy di sản văn hóa này một cách tốt hơn. Làm tốt hơn không có nghĩa
đem di sản này ra làm một cách giống nhau, như việc người ta đem Quan họ ra hát
tập thể... Đấy không phải là cách giữ gìn tốt nhất, càng không phải là cách giữ
mà Unesco mong muốn. Điều quan trọng là chúng ta phải di sản của mình rồi từ đó
có những thực hành sáng tạo hơn. Cái gì đã mai một nhưng còn có thể phục hồi
được thì chúng ta nhất định phải phục hồi. Ví dụ những tập quán, những nghi lễ
liên quan đến kéo co.
Chúng tôi từng có những kiến nghị đối với kéo song ở Vĩnh
Phúc là phải phục hồi lại kéo song nghi lễ, chứ không khuyến khích kéo song theo
kiểu thể thao như bây giờ.
Tiếp nữa, để bảo vệ di sản này các cơ quan quản lý văn
hóa từ địa phương đến trung ương cũng cần phải có sự đầu tư cho bà con. Ví dụ,
muốn kéo co phải có không gian. Ở Long Biên, vì không có không gian nên người ta
phải thực hành nghi lễ kéo ngay trên sân đình hoặc phải đi thuê một bãi đất
trồng rau để thực hành nghi lễ này.
Cuộc đời đại thi hào Nguyễn Du
Trong 55 năm cuộc đời (1765-1820), đại thi hào Nguyễn Du đã để lại di sản thi ca đồ sộ với những bài ca đối đáp đậm chất phiêu du của một thời tuổi trẻ, như: Thác lời trai phường nón; văn tế sống hai cô gái Trường Lưu; ba tập thơ chữ Hán là: Thanh Hiên thi tập; nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục gồm tổng cộng 250 bài; văn tế thập loại chúng sinh… Đặc biệt là Truyện Kiều nổi tiếng khắp thế giới.
Những lưu ý khi dọn dẹp bàn thờ
-
-
-
-
Nguồn: Trung tâm Tư liệu - TTXVN
Nguồn: Trung tâm Tư liệu - TTXVN
-
Cuộc đời đại thi hào Nguyễn Du
Trong 55 năm cuộc đời (1765-1820), đại thi hào Nguyễn Du đã để lại di sản thi ca đồ sộ với những bài ca đối đáp đậm chất phiêu du của một thời tuổi trẻ, như: Thác lời trai phường nón; văn tế sống hai cô gái Trường Lưu; ba tập thơ chữ Hán là: Thanh Hiên thi tập; nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục gồm tổng cộng 250 bài; văn tế thập loại chúng sinh… Đặc biệt là Truyện Kiều nổi tiếng khắp thế giới.
Những lưu ý khi dọn dẹp bàn thờ
-
-
-
-
Nguồn: Trung tâm Tư liệu -
TTXVN
-
Nguồn: Trung tâm Tư liệu - TTXVN-
-
Những lưu ý khi dọn dẹp bàn thờ
-
-
Thứ
ba, chúng ta phải có hình thức quảng bá, phổ biến phù hợp. Đừng biến nó trở
thành cái gì đó thật đặc biệt kiểu như lập kỷ lục hay tổ chức thật hoành tráng
mà phải làm sao để các cộng đồng thấy được ý nghĩa của di sản này, từ đó chung
tay chia sẻ với nhóm cộng đồng có di sản này để nét đẹp của di sản thực sự được
lan toả.
Và quan trọng hơn cả là phải làm cho thế hệ trẻ ngày nay
hiểu di sản đó là của cha ông mình để lại và mình là thế hệ tiếp nối có trách
nhiệm gìn giữ di sản đó.
Cám
ơn bà đã chia sẻ những thông tin này.
Hà
Tùng Long
Và quan trọng hơn cả là phải làm cho thế hệ trẻ ngày nay
hiểu di sản đó là của cha ông mình để lại và mình là thế hệ tiếp nối có trách
nhiệm gìn giữ di sản đó.
Cám
ơn bà đã chia sẻ những thông tin này.
Hà
Tùng Long
Đối xử với kéo co như thế nào để thực sự là di sản nhân loại?
Dân
trí Việc nghi lễ kéo co truyền thống của Việt Nam được Unesco công nhận
là di sản văn hoá phi vật thể của nhân loại là niềm vui, niềm tự hào đối với
người dân Việt Nam. Tuy nhiên, chúng ta nên đối xử với loại hình di sản này như
thế nào để xứng với tầm vóc của di sản nhân loại cũng là chuyện cần phải bàn.
>> Kéo
co Việt Nam chính thức trở thành Di sản của nhân loại
>> Xin
làm hồ sơ Di sản văn hóa nhân loại cho Chầu văn và kéo co
TS. Lê Thị Minh Lý, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Phát
huy giá trị Di sản văn hóa - người đã có nhiều năm nghiên cứu và tìm hiểu về
nghi lễ kéo co ở Việt Nam. Bà đồng thời là một trong những người đại diện cho
Việt Nam có bài tham luận trong một hội thảo về nghi lễ kéo co tại Hàn Quốc năm
2012. Trong quá trình Việt Nam xây dựng hồ sơ về nghi lễ kéo co, TS. Lê Thị Minh
Lý cũng là người đã tham gia đề xuất ý tưởng. Trước câu chuyện nên đối xử với
nghi lễ kéo co như thế nào để xứng với tầm vóc của một di sản nhân loại, bà Lý
đã có những chia sẻ rất chân tình với PV Dân
Trí.
TS. Lê Thị Minh Lý, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Phát
huy giá trị Di sản văn hoá. Ảnh: Tùng Long.
Bà
cảm thấy thế nào khi kéo co của Việt Nam cùng kéo co của Hàn Quốc, Philipine,
Campuchia đã được Unesco công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của
nhân loại?
Đây là niềm vui, niềm tự hào mà bất kỳ người dân hay
người làm công tác nghiên cứu, bảo tồn, phát huy di sản nào cũng chờ đợi. Tuy
nhiên, tôi không bất ngờ lắm vì tôi là một trong những người tham gia đề xuất ý
tưởng khi làm hồ sơ về nghi lễ kéo co Việt Nam. Đây là hồ sơ di sản đa quốc gia
đầu tiên mà Việt Nam tham gia.
Unesco chủ trương khuyến khích các quốc gia có những di
sản văn hóa có nét giống nhau bên cạnh những sắc thái riêng để cùng nhau lập hồ
sơ. Nhờ hình thức làm di sản đa quốc gia này mà Việt Nam hai năm liền có hai di
sản được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại (Ví Giặm Nghệ
Tĩnh và nghi lễ kéo co).
Là
người từng có nhiều năm nghiên cứu về di sản này, theo bà sự giống và khác nhau
giữa nghi lễ kéo co Việt Nam, Philipine, Hàn Quốc và Campuchia được thể hiện như
thế nào?
Nghi lễ kéo co của 4 nước kể trên giống nhau ở chỗ đây là
một tập quán xã hội có tính nghi lễ liên quan đến nền văn minh lúa nước. Nó là
biểu tượng của mùa màng bội thu, của sự sinh sôi nảy nở và của sự cố kết cộng
đồng... Ở một số nơi trên 4 nước này đến tận bây giờ vẫn còn tồn tại tính chất
nghi lễ cổ xưa gắn liền với hình thức kéo co này. Tính chất nghi lễ này giúp
chúng ta phân biệt kéo co khác với trò chơi kéo co thể thao thông thường. Nghi
lễ kéo co chứa đựng một tầng sâu văn hóa thể hiện bằng những tập tục và tín
ngưỡng. Người ta tin rằng, có thực hành nghi lễ ấy, tuân thủ những luật lệ ấy
trong lễ hội thì năm ấy mùa màng mới bội thu, chăn nuôi trồng trọt mới sinh sôi
nảy nở, cuộc sống mới tốt đẹp.
Một trong những cảnh thực hành nghi lễ kéo co trong hội
làng ở Long Biên (Hà Nội). Ảnh: Trung tâm Nghiên cứu và phát huy giá trị Di sản
văn hoá.
Còn khác là về hình thức biểu hiện. Ở Hàn Quốc, hầu hết
các thị trấn ở các vùng nông nghiệp đều tổ chức nghi lễ và trò chơi kéo co.
Người Hàn kéo co bằng sợi dây to như cột đình, hàng trăm người ôm. Sợi dây ấy
được bện bằng rơm rất kỳ công. Khi kéo, họ không chỉ kéo trong mấy chục phút mà
kéo cả ngày, kéo đi rồi kéo lại, cả làng ra kéo. Năm nào không may sợi dây ấy bị
đứt thì người ta cho năm đó không vui, xúi quẩy.
Ở Philipine lại chủ yếu kéo co dưới nước, dưới sông. Ở
Campuchia kéo co có từ rất sớm. Nó thể hiện rõ trong các hình vẽ và phù điêu ở
đền chùa Angkor. Người dân Campuchia quan niệm sợi dây kéo là biểu tượng của rắn
thần và người ta có hẳn một tích chuyện về điều này… Mỗi quốc gia đều có một
hình thức thể hiện khác nhau nhưng nhất quyết không phải là thể thao thuần
tuý.
Việc nghi lễ kéo co được công nhận là di sản nhân loại
rất có ý nghĩa vì nó góp phần làm cho cộng đồng 4 nước xích lại gần với nhau,
chia sẻ với nhau một nét văn hoá, một tập quán để từ đó hiểu biết nhau hơn, tăng
cường hơn nữa tính cố kết cộng đồng.
Ở
Việt Nam hiện nghi lễ kéo con còn tồn tại ở những địa phương nào và hình thức
giữ gìn, thực hành di sản này ra sao, thưa bà?
Ở Việt Nam, nghi lễ kéo co tập trung hầu hết ở vùng trung
du, đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ - đây là vùng đất tụ cư lâu đời của
người Việt, là cái nôi của nền văn minh lúa nước. Trong quá trình đi điền dã
chúng tôi mới chỉ phát hiện nghĩ lễ kéo co ở các tỉnh Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Hà
Nội, Lào Cai. Ngoài ra, di sản này cũng được thực hành thường xuyên ở cộng đồng
của các dân tộc ít người như: Tày (Tuyên Quang), Giáy (Lào Cai) và Thái (Lai
Châu). Đây vốn là những cư dân trồng lúa sớm trong lịch sử.
Nghi lễ kéo co của Việt Nam thường gắn liền với các lễ
hội truyền thống và môi trường thực hành thường là trước cửa đình, đền. Tuy
nhiên, bây giờ đời sống phát triển, quy hoạch lại nông thôn nên bà con không còn
không gian để thực hành kéo co theo đúng tập quán xã hội của nó nữa. Bây giờ
người ta buộc phải kéo nhau ra khu vực sân vận động để thực hành kéo co. Cái đó
khiến nghi lễ kéo co trở thành trò chơi phát triển về văn hóa thể thao thuần
tuý, mà mai một đi nét văn hóa của di sản.
Nghi lễ kéo co (còn gọi kéo mỏ) ở Sóc Sơn (Hà Nội). Ảnh:
Trung tâm Nghiên cứu và phát huy giá trị Di sản văn hoá.
Nhiều
ý kiến cho rằng, mặc dù đã được Unesco công nhận là di sản nhưng thực tế nghi lễ
kéo co ở Việt Nam đang tồn tại tự phát trong dân gian chứ chưa được cơ quan quản
lý văn hóa quan tâm đúng mức. Bà nghĩ sao về điều này?
Đó là những tồn tại về mặt nhận thức. Đôi khi chúng ta
nhận thức di sản là một cái gì đó phải thật tiêu biểu, nổi bật, khác lạ, hoành
tráng… Vì thế những cái gì nhỏ hơn chúng ta lại xem nhẹ hoặc bình thường hóa đi.
Trong khi di sản có nhiều hình thái khác nhau, có những di sản rất tỏa sáng về
quy mô và cách biểu hiện nhưng cũng có những di sản âm thầm như những dòng suối
chảy trong đời sống. Những thứ trở thành di sản vì thực sự có ý nghĩa đối với
mọi người.
Vì thế, chúng ta phải thay đổi quan niệm về di sản. Di
sản không chỉ là những lễ hội hoành tráng, những nghệ thuật trình diễn có thể
nhìn thấy rõ ràng hoặc các nghề thủ công truyền thống lâu đời… mà cả những thứ
rất đỗi giản dị trong đời sống. Và chúng ta cần tất cả. Chúng ta cần những di
sản to lớn và cả những di sản bình dị bởi đó là bản sắc, văn hoá, là kết tinh
của đời sống con người Việt Nam.
Unesco khuyến nghị chúng ta cần phải đối xử công bằng với
tất cả các di sản. Đừng nghĩ rằng cái to mới là của nhân loại. Những cái nhỏ bé
chỉ diễn ra 30 phút đến 1 tiếng trong một lễ hội làng dù chưa bao giờ được xem
trọng nhưng lại là một sắc thái văn hoá, một tập quán xã hội, một nét mỹ tục…
rất đỗi thiêng liêng. Nó có ý nghĩa với một nhóm cộng đồng đó và người ta gìn
giữ từ bao đời nay. Bây giờ chúng ta lại có cơ hội chia sẻ với những nước khác
có chung tập quán văn hóa này thì càng phải quan tâm nhiều hơn. Quan tâm như thế
nào đó là trách nhiệm của không chỉ cơ quan quản lý văn hóa mà tất cả mọi người
dân.
Cảnh kéo song ở Vĩnh Phúc. Ảnh: CDS.
Thực
tế, bây giờ nghi lễ kéo co đã là di sản của nhân loại, vậy chúng ta cần phải đối
xử với di sản này như thế nào để xứng đáng với tầm vóc của nó, thưa
bà?
Trước hết, chúng ta phải xác định, việc ghi nhận này cho
ai? Cho chính những người dân ở chung một cộng đồng ấy, cho chính những người
nắm giữ nghi lễ kéo co này. Đây là một cơ hội để họ nhận kéo co chính là di sản.
Điều này vô hình chung đặt lên vai họ một trách nhiệm phải làm thế nào để giữ
gìn và phát huy di sản văn hóa này một cách tốt hơn. Làm tốt hơn không có nghĩa
đem di sản này ra làm một cách giống nhau, như việc người ta đem Quan họ ra hát
tập thể... Đấy không phải là cách giữ gìn tốt nhất, càng không phải là cách giữ
mà Unesco mong muốn. Điều quan trọng là chúng ta phải di sản của mình rồi từ đó
có những thực hành sáng tạo hơn. Cái gì đã mai một nhưng còn có thể phục hồi
được thì chúng ta nhất định phải phục hồi. Ví dụ những tập quán, những nghi lễ
liên quan đến kéo co.
Chúng tôi từng có những kiến nghị đối với kéo song ở Vĩnh
Phúc là phải phục hồi lại kéo song nghi lễ, chứ không khuyến khích kéo song theo
kiểu thể thao như bây giờ.
Tiếp nữa, để bảo vệ di sản này các cơ quan quản lý văn
hóa từ địa phương đến trung ương cũng cần phải có sự đầu tư cho bà con. Ví dụ,
muốn kéo co phải có không gian. Ở Long Biên, vì không có không gian nên người ta
phải thực hành nghi lễ kéo ngay trên sân đình hoặc phải đi thuê một bãi đất
trồng rau để thực hành nghi lễ này.
-
-
TS. Lê Thị Minh Lý, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Phát
huy giá trị Di sản văn hóa - người đã có nhiều năm nghiên cứu và tìm hiểu về
nghi lễ kéo co ở Việt Nam. Bà đồng thời là một trong những người đại diện cho
Việt Nam có bài tham luận trong một hội thảo về nghi lễ kéo co tại Hàn Quốc năm
2012. Trong quá trình Việt Nam xây dựng hồ sơ về nghi lễ kéo co, TS. Lê Thị Minh
Lý cũng là người đã tham gia đề xuất ý tưởng. Trước câu chuyện nên đối xử với
nghi lễ kéo co như thế nào để xứng với tầm vóc của một di sản nhân loại, bà Lý
đã có những chia sẻ rất chân tình với PV Dân
Trí.
TS. Lê Thị Minh Lý, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Phát
huy giá trị Di sản văn hoá. Ảnh: Tùng Long.
Bà
cảm thấy thế nào khi kéo co của Việt Nam cùng kéo co của Hàn Quốc, Philipine,
Campuchia đã được Unesco công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của
nhân loại?
Đây là niềm vui, niềm tự hào mà bất kỳ người dân hay
người làm công tác nghiên cứu, bảo tồn, phát huy di sản nào cũng chờ đợi. Tuy
nhiên, tôi không bất ngờ lắm vì tôi là một trong những người tham gia đề xuất ý
tưởng khi làm hồ sơ về nghi lễ kéo co Việt Nam. Đây là hồ sơ di sản đa quốc gia
đầu tiên mà Việt Nam tham gia.
Unesco chủ trương khuyến khích các quốc gia có những di
sản văn hóa có nét giống nhau bên cạnh những sắc thái riêng để cùng nhau lập hồ
sơ. Nhờ hình thức làm di sản đa quốc gia này mà Việt Nam hai năm liền có hai di
sản được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại (Ví Giặm Nghệ
Tĩnh và nghi lễ kéo co).
Là
người từng có nhiều năm nghiên cứu về di sản này, theo bà sự giống và khác nhau
giữa nghi lễ kéo co Việt Nam, Philipine, Hàn Quốc và Campuchia được thể hiện như
thế nào?
Nghi lễ kéo co của 4 nước kể trên giống nhau ở chỗ đây là
một tập quán xã hội có tính nghi lễ liên quan đến nền văn minh lúa nước. Nó là
biểu tượng của mùa màng bội thu, của sự sinh sôi nảy nở và của sự cố kết cộng
đồng... Ở một số nơi trên 4 nước này đến tận bây giờ vẫn còn tồn tại tính chất
nghi lễ cổ xưa gắn liền với hình thức kéo co này. Tính chất nghi lễ này giúp
chúng ta phân biệt kéo co khác với trò chơi kéo co thể thao thông thường. Nghi
lễ kéo co chứa đựng một tầng sâu văn hóa thể hiện bằng những tập tục và tín
ngưỡng. Người ta tin rằng, có thực hành nghi lễ ấy, tuân thủ những luật lệ ấy
trong lễ hội thì năm ấy mùa màng mới bội thu, chăn nuôi trồng trọt mới sinh sôi
nảy nở, cuộc sống mới tốt đẹp.
Một trong những cảnh thực hành nghi lễ kéo co trong hội
làng ở Long Biên (Hà Nội). Ảnh: Trung tâm Nghiên cứu và phát huy giá trị Di sản
văn hoá.
Còn khác là về hình thức biểu hiện. Ở Hàn Quốc, hầu hết
các thị trấn ở các vùng nông nghiệp đều tổ chức nghi lễ và trò chơi kéo co.
Người Hàn kéo co bằng sợi dây to như cột đình, hàng trăm người ôm. Sợi dây ấy
được bện bằng rơm rất kỳ công. Khi kéo, họ không chỉ kéo trong mấy chục phút mà
kéo cả ngày, kéo đi rồi kéo lại, cả làng ra kéo. Năm nào không may sợi dây ấy bị
đứt thì người ta cho năm đó không vui, xúi quẩy.
Ở Philipine lại chủ yếu kéo co dưới nước, dưới sông. Ở
Campuchia kéo co có từ rất sớm. Nó thể hiện rõ trong các hình vẽ và phù điêu ở
đền chùa Angkor. Người dân Campuchia quan niệm sợi dây kéo là biểu tượng của rắn
thần và người ta có hẳn một tích chuyện về điều này… Mỗi quốc gia đều có một
hình thức thể hiện khác nhau nhưng nhất quyết không phải là thể thao thuần
tuý.
Việc nghi lễ kéo co được công nhận là di sản nhân loại
rất có ý nghĩa vì nó góp phần làm cho cộng đồng 4 nước xích lại gần với nhau,
chia sẻ với nhau một nét văn hoá, một tập quán để từ đó hiểu biết nhau hơn, tăng
cường hơn nữa tính cố kết cộng đồng.
Ở
Việt Nam hiện nghi lễ kéo con còn tồn tại ở những địa phương nào và hình thức
giữ gìn, thực hành di sản này ra sao, thưa bà?
Ở Việt Nam, nghi lễ kéo co tập trung hầu hết ở vùng trung
du, đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ - đây là vùng đất tụ cư lâu đời của
người Việt, là cái nôi của nền văn minh lúa nước. Trong quá trình đi điền dã
chúng tôi mới chỉ phát hiện nghĩ lễ kéo co ở các tỉnh Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Hà
Nội, Lào Cai. Ngoài ra, di sản này cũng được thực hành thường xuyên ở cộng đồng
của các dân tộc ít người như: Tày (Tuyên Quang), Giáy (Lào Cai) và Thái (Lai
Châu). Đây vốn là những cư dân trồng lúa sớm trong lịch sử.
Nghi lễ kéo co của Việt Nam thường gắn liền với các lễ
hội truyền thống và môi trường thực hành thường là trước cửa đình, đền. Tuy
nhiên, bây giờ đời sống phát triển, quy hoạch lại nông thôn nên bà con không còn
không gian để thực hành kéo co theo đúng tập quán xã hội của nó nữa. Bây giờ
người ta buộc phải kéo nhau ra khu vực sân vận động để thực hành kéo co. Cái đó
khiến nghi lễ kéo co trở thành trò chơi phát triển về văn hóa thể thao thuần
tuý, mà mai một đi nét văn hóa của di sản.
Nghi lễ kéo co (còn gọi kéo mỏ) ở Sóc Sơn (Hà Nội). Ảnh:
Trung tâm Nghiên cứu và phát huy giá trị Di sản văn hoá.
Nhiều
ý kiến cho rằng, mặc dù đã được Unesco công nhận là di sản nhưng thực tế nghi lễ
kéo co ở Việt Nam đang tồn tại tự phát trong dân gian chứ chưa được cơ quan quản
lý văn hóa quan tâm đúng mức. Bà nghĩ sao về điều này?
Đó là những tồn tại về mặt nhận thức. Đôi khi chúng ta
nhận thức di sản là một cái gì đó phải thật tiêu biểu, nổi bật, khác lạ, hoành
tráng… Vì thế những cái gì nhỏ hơn chúng ta lại xem nhẹ hoặc bình thường hóa đi.
Trong khi di sản có nhiều hình thái khác nhau, có những di sản rất tỏa sáng về
quy mô và cách biểu hiện nhưng cũng có những di sản âm thầm như những dòng suối
chảy trong đời sống. Những thứ trở thành di sản vì thực sự có ý nghĩa đối với
mọi người.
Vì thế, chúng ta phải thay đổi quan niệm về di sản. Di
sản không chỉ là những lễ hội hoành tráng, những nghệ thuật trình diễn có thể
nhìn thấy rõ ràng hoặc các nghề thủ công truyền thống lâu đời… mà cả những thứ
rất đỗi giản dị trong đời sống. Và chúng ta cần tất cả. Chúng ta cần những di
sản to lớn và cả những di sản bình dị bởi đó là bản sắc, văn hoá, là kết tinh
của đời sống con người Việt Nam.
Unesco khuyến nghị chúng ta cần phải đối xử công bằng với
tất cả các di sản. Đừng nghĩ rằng cái to mới là của nhân loại. Những cái nhỏ bé
chỉ diễn ra 30 phút đến 1 tiếng trong một lễ hội làng dù chưa bao giờ được xem
trọng nhưng lại là một sắc thái văn hoá, một tập quán xã hội, một nét mỹ tục…
rất đỗi thiêng liêng. Nó có ý nghĩa với một nhóm cộng đồng đó và người ta gìn
giữ từ bao đời nay. Bây giờ chúng ta lại có cơ hội chia sẻ với những nước khác
có chung tập quán văn hóa này thì càng phải quan tâm nhiều hơn. Quan tâm như thế
nào đó là trách nhiệm của không chỉ cơ quan quản lý văn hóa mà tất cả mọi người
dân.
Cảnh kéo song ở Vĩnh Phúc. Ảnh: CDS.
Thực
tế, bây giờ nghi lễ kéo co đã là di sản của nhân loại, vậy chúng ta cần phải đối
xử với di sản này như thế nào để xứng đáng với tầm vóc của nó, thưa
bà?
Trước hết, chúng ta phải xác định, việc ghi nhận này cho
ai? Cho chính những người dân ở chung một cộng đồng ấy, cho chính những người
nắm giữ nghi lễ kéo co này. Đây là một cơ hội để họ nhận kéo co chính là di sản.
Điều này vô hình chung đặt lên vai họ một trách nhiệm phải làm thế nào để giữ
gìn và phát huy di sản văn hóa này một cách tốt hơn. Làm tốt hơn không có nghĩa
đem di sản này ra làm một cách giống nhau, như việc người ta đem Quan họ ra hát
tập thể... Đấy không phải là cách giữ gìn tốt nhất, càng không phải là cách giữ
mà Unesco mong muốn. Điều quan trọng là chúng ta phải di sản của mình rồi từ đó
có những thực hành sáng tạo hơn. Cái gì đã mai một nhưng còn có thể phục hồi
được thì chúng ta nhất định phải phục hồi. Ví dụ những tập quán, những nghi lễ
liên quan đến kéo co.
Chúng tôi từng có những kiến nghị đối với kéo song ở Vĩnh
Phúc là phải phục hồi lại kéo song nghi lễ, chứ không khuyến khích kéo song theo
kiểu thể thao như bây giờ.
Tiếp nữa, để bảo vệ di sản này các cơ quan quản lý văn
hóa từ địa phương đến trung ương cũng cần phải có sự đầu tư cho bà con. Ví dụ,
muốn kéo co phải có không gian. Ở Long Biên, vì không có không gian nên người ta
phải thực hành nghi lễ kéo ngay trên sân đình hoặc phải đi thuê một bãi đất
trồng rau để thực hành nghi lễ này.
Cuộc đời đại thi hào Nguyễn Du
Trong 55 năm cuộc đời (1765-1820), đại thi hào Nguyễn Du đã để lại di sản thi ca đồ sộ với những bài ca đối đáp đậm chất phiêu du của một thời tuổi trẻ, như: Thác lời trai phường nón; văn tế sống hai cô gái Trường Lưu; ba tập thơ chữ Hán là: Thanh Hiên thi tập; nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục gồm tổng cộng 250 bài; văn tế thập loại chúng sinh… Đặc biệt là Truyện Kiều nổi tiếng khắp thế giới.
Những lưu ý khi dọn dẹp bàn thờ
-
-
-
-
Nguồn: Trung tâm Tư liệu - TTXVN
Nguồn: Trung tâm Tư liệu - TTXVN
-
Cuộc đời đại thi hào Nguyễn Du
Trong 55 năm cuộc đời (1765-1820), đại thi hào Nguyễn Du đã để lại di sản thi ca đồ sộ với những bài ca đối đáp đậm chất phiêu du của một thời tuổi trẻ, như: Thác lời trai phường nón; văn tế sống hai cô gái Trường Lưu; ba tập thơ chữ Hán là: Thanh Hiên thi tập; nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục gồm tổng cộng 250 bài; văn tế thập loại chúng sinh… Đặc biệt là Truyện Kiều nổi tiếng khắp thế giới.
Những lưu ý khi dọn dẹp bàn thờ
-
-
-
-
Nguồn: Trung tâm Tư liệu -
TTXVN
-
Nguồn: Trung tâm Tư liệu - TTXVN-
-
Những lưu ý khi dọn dẹp bàn thờ
Hà
Tùng Long
Hà
Tùng Long
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét