Nguồn gốc món phở
“,,,,chăn
nuôi bò lấy thịt và sữa là do người Pháp đem vào. Điều đó khẳng
định phở bò chỉ có đầu thế kỷ 20 vì chuyến bò nhập đầu tiên là
năm 1898. ,,,,,”
Bài
nầy nói
về nguồn gốc của chữ “phở“, rất hợp
lý, đả phá cái
chữ Tàu
“ngầu dục phảnh”
(ngưu nhục phấn) mà lâu nay
nhiều người tin
như vậy.
Người ta hay
dịch
những đặc sản của Việt Nam ra
ngoại ngữ vì ghi
tiếng
Việt người
ngoại quốc
không đọc được. Tại sao không
giữ nguyên
chữ Việt như phở, chả giò,
gỏi cuốn…?
Họ
đọc
không đúng thì phiên âm ra
như Tàu hay
Nhựt… Cũng vì
lẽ chữ quốc ngữ dùng
mẫu tự La tinh nên
người mình
chủ quan,
tự cho mình là “may
mắn” và
“thuận lợi” hơn người. Xem
lại có
hơn gì ai không, Tàu,
Nhựt, Cao ly… không có “may
mắn”
như mình có
chữquốc ngữ mà
trình độ của họ bây
giờ ra sao so
với mình ?
Nhiều người còn
lười biếng đến nỗi gõ
chữ Việt không
dấu cho
người ta
vừa đọc vừa đoán
!
NPH
Bên Bát
Phở Trần Thu
Dung
Một
lần anh bạn Việt kiều Mỹ qua Paris chơi, rủ nhau đi ăn tiệm. Tôi hỏi
anh thích nếm hương vị quê hương hay hương vị Pháp. Anh bạn đề
nghị ăn đồ Tây với lý do đến đâu phải nếm đặc sản nước đó, đặc
sản Việt Nam: nem, phở, bún, bánh cuốn… bên Mỹ bán đầy khắp. Hóa ra
đặc sản Việt Nam bây giờ du lịch khắp thế giới, đặc biệt là ở Pháp
và Mỹ – hai nước có lịch sử liên quan đến Việt Nam. Nhiều người
nước ngoài biết đến nem, phở. Điều ngạc nhiên phở là món ăn quốc
hồn quốc túy của Việt Nam không nằm trên mâm cơm thờ cúng tổ tiên.
Tết Việt Nam gắn liền với bánh chưng, nem, măng hầm, bóng xào chứ
không phải phở.
Phở
là món đặc sản truyền thống của Việt Nam. Truyền thống, theo từ điển
Pháp định nghĩa là những vật thể và phi vật thể được truyền từ
thế kỷ này sang thế kỷ khác. Bánh chưng, nem là những món ăn truyền
thống đã có từ nhiều thế kỷ. Phở cũng là món ăn truyền thống, vì
nó đã được nhắc đến trong tùy bút, văn của một số nhà văn thời
tiền chiến, như Nguyễn Công Hoan nhắc đến phở từ 1913 *. Nếu tính
đến năm nay Phở Việt Nam đã có trên 100 năm, truyền từ đầu thế kỷ
20 sang đến thế kỷ 21. Những món ăn có ghi vào trong từ điển là
những món ăn đã nổi tiếng và quen thuộc với dân tộc đó. Phở đã có
mặt trong từ điển.
Bàn
về phở người ta thường nói đến phở bò Bắc Kỳ. Tên gọi chứng minh
thịt bò là nguyên liệu chính.
Trâu
bò thường xuyên gắn với đời sống nông nghiệp ở Việt Nam. Người
nông dân thường tính gia sản không phải bằng tiền vàng, mà số
lượng trâu bò tậu được. Khác với trâu, bò hầu như vắng bóng trong
văn hóa Việt Nam. Trâu được nhắc rất nhiều trong đời sống văn hóa
Việt xưa. Hình ảnh chú bé chăn trâu đã quen thuộc với người Việt
Nam. Đồng tiền Đông Dương do Pháp ấn hành có hình trâu
cày.
Tranh
dân gian hay ca dao, tục ngữ thường chỉ nhắc đến con trâu: con trâu
là đầu cơ nghiệp, ruộng sâu trâu nái, con trâu đi trước cái cày đi
sau. Con bò vắng bóng trong ca dao, tục ngữ Việt Nam, và tranh dân gian.
Lễ hội chọi trâu, đâm trâu là truyền thống lâu đời của dân tộc
Việt Nam còn tồn tại đến ngày nay. Chu kỳ 12 năm trong lịch âm, có
năm trâu, không có năm bò, dù bò cũng gắn liền với nghề nông.
Truyện cổ tích dân gian kể
về sự liên quan mật thiết giữa người và trâu. Cuội đi chăn trâu
lừa phú ông. Trí khôn của ta đây ca ngợi sự thông minh của người
nông dân điều khiển được trâu cày và lừa được hổ. Sự tích trầu
cau để giải thích tục lệ ăn trầu.
Nhiều
món dân tộc đã đi vào thành ngữ ca dao tục ngữ: “Ông ăn chả bà ăn
nem ”, “Tay cầm bầu rượu nắm nem… mải vui quên hết lời em dặn dò”;
“Ra đi anh nhớ quê nhà, nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương”… Nhiều
làng đã gắn với tên tuổi của sản phẩm như bánh cuốn Thanh Trì,
bánh đúc làng Kẻ, tương Cự Đà, cốm làng Vòng, bánh chưng bánh dầy
từ thời Văn Lang… Ca dao truyền khẩu dạy chế biến các món dân gian:
“con gà cục tác lá chanh, con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi, con chó
khóc đứng khóc ngồi, mẹ ơi đi chợ mua tôi đồng riềng”, “Khế xanh nấu
với ốc nhồi, Tuy nước nó xám, nhưng mùi nó
ngon”.
Điểm
qua văn chương cổ không thấy tả vua chúa ăn phở bò, hay tả về món
phở bò. Phở chỉ xuất hiện trong văn thơ thời Pháp thuộc, Tú Mỡ,
Thạch Lam, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan… Bò, và phở gần
như vắng hoàn toàn trong văn hóa dân gian
Việt.
Điều
này chứng tỏ bò và phở xa lạ với người Việt Nam trước thế kỷ 20.
Các sản phẩm từ sữa bò quen thuộc với người châu Âu, xa lạ với
người Việt thời đó: sữa tươi, bơ, phô-ma, sữa chua. Chăn nuôi bò
là một ngành phát triển mạnh ở Pháp. Pháp nổi tiếng có hơn 100
loại phô-ma khác nhau, hầu như đều là sản phẩm từ sữa bò. Khi
người Pháp chiếm Đông Dương, nhu cầu về sữa bò, và phô-ma bơ,
thịt bò là nhu cầu thiết yếu của họ. Cà phê sữa, uống sữa là thói
quen của người Pháp.
Người
Việt Nam chỉ uống trà. Quan niệm xưa chung của dân châu Á, ai uống
sữa động vật nào là sẽ biến thành con vật đó. Chỉ có tầng lớp nhỏ
trung lưu làm việc với Pháp mới biết khẩu vị “Tối
rượu sâm-panh, sáng sữa bò”.Trong cuốn “Địa lý về sữa, in năm 1940,
P. Veyrey đã nhận định: sữa
ở Annam chỉ phục vụ cho một số tầng lớp khá giả. Bò và sản phẩm
từ bò không quen thuộc đối với người Đông Dương. Trẻ con ở đây bú
mẹ đến 3, 5 tuổi. Dân các nước Đông Nam Á không dùng sữa, bơ. “Dân
bơ sữa” là thành ngữ mới, chỉ đám con nhà giàu sang. Việt Nam chỉ
nuôi trâu. Trâu khỏe giúp cho cày ruộng. Chỉ khi nào trâu chết, hay
già, ốm yếu mới được ăn thịt. Thời trước chỉ có món xáo trâu.
Không có món ăn nào của Việt Nam liên quan đến thịt bò được nhắc
đến trước thế kỷ 20. Chứng tỏ bò hầu như không có mặt ở Việt
Nam.
Bò
châu Á là giống bé nhỏ, có bướu và rất ít do không đem nhiều lợi
ích trong cuộc sống như trâu. Trâu to và khỏe, sức chịu đựng dẻo
dai. Người nông dân Việt trước kia nuôi trâu. Người Pháp khi đến
Đông Dương chê bò có bướu châu Á còi cọc, ốm yếu, gầy giơ
xương, túi hai bên sườn rỗng, không có thịt. Người Pháp đã quyết
định nhập bò sữa từ Normandie, và một số từ Ấn Độ, bò Thụy Sỹ, bò
Bretagne và cho lai tạo với hy vọng tạo ra một giống bò mới, to khỏe
chịu đựng được khí hậu nhiệt đới, và cho nhiều sữa,
thịt.
Bác
sĩ Yersin đã đệ thư xin chính phủ bảo hộ cho nhập bò, gà Thụy Sỹ.
Năm 1898, Pháp đã bắt đầu nhập bò vào Việt Nam. Chuyên gia nuôi bò
ở Limousin được gửi sang Đông Dương để hướng dẫn cách nuôi. Do
chặng đường vận chuyển bằng tàu thủy từ Marseille đến Đông Dương
và khí hậu thay đổi hoàn toàn khác, nhiều con đã chết hay kiệt sức
trên đường đi. Một số bò được thử thả nuôi, chết vì hổ, voi rừng.
Sau đó bò được giao cho nông dân nuôi (có lẽ từ đó người nông dân
Việt Nam mới nuôi bò). Người Pháp dạy cho nông dân bản xứ cách
nuôi bò, vắt sữa.
Sữa
và thịt bò chỉ bán trong các thành phố lớn và chỉ có người Pháp
tiêu thụ vì giá thành quá cao. 1 cân thịt bò 30 cents. Cũng vì vậy
công nghệ làm bơ, phô-ma không thể làm tại địa phương, phải nhập
từ mẫu quốc do số lượng người dùng ít. Việc nuôi bò thịt và sữa
không đem lại lợi nhuận so với khai thác cà phê, cao xu, mỏ… Chăn
nuôi bò gần như không thành công tại Đông
Dương.
Như
vậy công nghệ chăn nuôi bò lấy thịt và sữa là do người Pháp đem
vào. Điều đó khẳng định phở bò chỉ có đầu thế kỷ 20 vì chuyến bò
nhập đầu tiên là năm 1898.
Bò
rất hiếm, đương nhiên quý nên đắt tiền. Mổ bò là ngày hội lớn
của làng, phải đem ra bàn bạc ở đình làng vì vậy mới có thành ngữ
ồn ào (cãi nhau) như mổ bò là thành ngữ mới. Một vài thành ngữ
mới xuất hiện đầu thế kỷ 20: Trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết; Ngu
như bò, cùng với trò chơi đấu bò, thi cưỡi bò ở miền Tây. Thời
nay phở trở nên món ăn hấp dẫn quen thuộc nên được ví như
bồ.
Cuốn
từ điển của Alexandre de Rhodes năm 1651 không có từ phở. Trong bài
khảo luận về dân Bắc Kỳ, Tạp chí Đông Dương (15/9/1907), Georges
Dumoutier nói về những món ăn phổ biến ở Bắc Kỳ, không điểm danh
phở. Khảo sát việc nhập bò, chăn nuôi bò thời Đông Dương chứng
minh phở
chỉ xuất hiện đầu thế kỷ 20. Phở sớm được ưa thích, nên phở xuất
hiện trong văn thơ thời Pháp thuộc, và chỉ hơn chục năm sau, phở có
trong từ điển. Từ điển của Gustave Hue (Dictionnaire Annamite – Chinois –
Français) xuất bản năm 1937 định nghĩa: “Cháo phở :
pot-au-feu”.
Người
Pháp dịch món PHỞ là pot au feu (pô-tô-phơ). Pot au feu – món súp hầm
thịt bò là món ăn truyền thống của Pháp. Phở chính là sự sáng tạo
của người Việt khi giao lưu với văn hóa ẩm thực Pháp. Xét về
nguyên liệu thì nồi nước súp cổ truyền của người Pháp gần giống
nồi nước dùng nấu phở trừ rau củ. Thịt bò toàn những thứ cứng và
dai : đuôi, gân, sườn, đùi thăn, dạ dày, bạc nhạc. Tất cả hầm chung
với hành củ và quế, hoa hồi, hạt tiêu. Nước dùng được lọc 1 lần
cho trong, khi thịt gân mềm cho rau, củ (cà rốt, cần tây, khoai tây).
Phở có dùng hành tây nướng, bóc vỏ bỏ vào nước dùng cho thơm.
Hành Tây củ chỉ có khi Pháp vào Việt Nam, nên gọi là hành Tây. Anis
(hoa hồi) cũng không phải là hương vị quen thuộc của người
Việt.
Người
Pháp sống ở Đông dương với nỗi nhớ quê hương và các món ăn dân
tộc họ. Họ đã bày cho những người đầu bếp Việt Nam nấu món này.
Thấy món ăn hấp dẫn dễ ăn, người Việt đã Việt Nam hóa một cách
sáng tạo món súp bò của Pháp bằng cách dùng thêm hương liệu Việt
Nam có sẵn như gừng nướng, quế và thay thế khoai tây bằng bánh đa
tươi thái sợi. Bánh đa, bánh cuốn là bánh có từ lâu đời của
người Việt Nam. Nước dùng nấu như pot au feu nhưng không cho rau củ.
Người Pháp khi ăn súp này thì vớt thịt miếng to cho vào đĩa sâu, ai
ăn thì tự lấy cắt nhỏ ra, rưới thêm nước súp và rau khoai, ăn với
bánh mỳ.
Người
Việt không dùng dao nĩa như người Pháp, mà dùng đũa, nên thịt thái
nhỏ theo phong tục thói quen người Việt. Hơn nữa, thời đó xã hội
Việt Nam còn nghèo, miếng thịt to như thế là một thứ xa xỉ phẩm.
Nhiều chuyện kể, bố và bạn ngồi nhấm rượu với thịt, vợ con ngồi
chờ dưới bếp thập thò hy vọng còn thừa để ăn. Thái thịt chín mỏng
là tài nghệ của người đầu bếp. Thịt chín, thịt gân thái mỏng giơ
lên thấy cả ánh sáng mặt trời, nhưng không được rách vỡ, miếng
gân, ngầu trong vắt, khi rưới nước phở lên, nước dùng thấm xuyên
qua miếng thịt, ăn miếng thịt mới cảm thấy đậm đà. Thịt hầm không
nát. Gân phải mềm.
Người
Pháp ăn món súp bò thả hành và rắc rau mùi tây lên trên. Việt Nam,
phở bò nguyên gốc Hà Nội cũng chỉ rắc hành và mùi và thịt chín.
Thịt bò nạc mềm đắt, nên chỉ dùng nguyên liệu rẻ tiền nhất trong
thịt bò. Theo Clotilde Chivas-Baron, Marie-Paule Ha kể các Sơ đầu tiên
đến Đông Dương
nhận quà tặng là một con bò sữa khi mới thành lập “La Sainte Enfance”
ở Sài gòn. Lúc đó ban truyền giáo nghèo, nhà lợp lá, 20/05/1860.
Trại có chuồng nuôi gà và một con dê,…”. Bò là món quà tặng quý
hiếm lúc đó. Nên mặc dù nguyên liệu nấu phở bò là thứ rẻ tiền
nhất, phở thời đó chưa phải là món bình dân như thời nay. Giá một
bát phở từ 2 đến 5 xu, tương đương một ngày công lao động vất vả
của người công nhân làm cho Pháp.
Phở
xuất hiện đầu thế kỷ 20, do đó không có mặt trong ngày Tết cổ
truyền dân tộc.
Phở
là món ăn ảnh hưởng món súp bò của Pháp. Vậy từ phở do
chữ “Feu
/ phơ” mà
ra. Tiếng Việt đơn âm, người Việt lúc đó đại đa số không biết
tiếng Pháp, do tiếp xúc làm việc phục vụ cho người Pháp, họ nói
tiếng Tây bồi, họ thường hay rút ngắn từ tiếng Pháp, nhất là khi
nghe không rõ, họ có thói quen lấy từ đầu hay từ cuối cùng để gọi.
Thí dụ như Galon (phù hiệu quân hàm) gọi đơn giản là lon, biscuit
(bánh qui – lấy âm qui đằng sau từ
biscuit), chèque (séc), essence (xăng), affaire (phe), démarrer (đề),
alcool (cồn), beige (be), dentelle (ren, cartouche
(tút)…
Chỉ
có người Pháp thời đó làm việc quen với mấy người phục vụ mới
hiểu được tiếng Tây bồi này. Tiếng bồi này thời đó là oai vì làm
việc cho Tây và nói Tây hiểu, dần dần lan ra dân chúng, trở nên
ngôn ngữ mới. Hầu như là những từ không có ở Việt Nam, như xăng,
cồn, tút, đề…. và các món ăn của Pháp như bơ, phô-ma, biscuit…
Riêng sữa có từ ở Việt Nam, nên không vay mượn từ của Pháp kiểu
đó. Sự biến đổi những từ đa âm thành từ đơn âm là cách Việt hóa
các từ Pháp. Người bồi bếp đã đọc chữ cuối FEU thành PHỞ. Từ đó
có từ phở.
Phở
là món ăn của Bắc Kỳ (theo từ điển của Pháp sau này họ dịch là
soupe tonkinoise – súp Bắc Kỳ). Điều này khẳng định phở xuất hiện ở
miền Bắc.
Người
Tàu không có món phở, không có chữ phở. Ở nước ngoài, quán ăn
nào của người Tàu có món phở, họ có ghi bằng tiếng Việt: phở bò
Việt Nam (Vietnamese Nalle phở noodle soup with sliced rare beef and well done
beef brisket).
Trong
khi người Tàu thừa nhận phở là đặc sản của Việt Nam, thì một vài
người Việt lại loay hoay chứng minh chữ phở là của gốc tiếng Tàu,
và món phở từ món ngưu lục phấn của Tàu (mì trâu). Món phở xuất
phát từ món súp bò của Pháp. Phở là sự kết hợp thông minh sáng
tạo từ món súp bò Pháp với nguyên liệu cổ truyền của Việt Nam. Từ
điển do người Pháp soạn cũng ghi phở: món súp Bắc Kỳ. Spagetti của
Ý là do Marco Polo mang mỳ từ Tàu về. Sự sáng tạo thông minh của
người đầu bếp Ý đã biến món mỳ Tàu thành món spagetti nổi tiếng
thế giới. Sushi Nhật bản là từ cơm nắm – món
ăn dân dã của nhiều nước châu Á. Không ai nói Spagetti, Sushi của
Tầu… Trong khi đó thật đáng buồn, cuốn từ điển Việt-Pháp do Lê Khả
Kế và Nguyễn Lân biên soạn, tái bản lần thứ 4, bên trong đề có
chỉnh sửa, do nxb Khoa học Xã hội in năm 1997, dịch Phở là soupe
chinoise (súp Tàu).
“,,,,chăn
nuôi bò lấy thịt và sữa là do người Pháp đem vào. Điều đó khẳng
định phở bò chỉ có đầu thế kỷ 20 vì chuyến bò nhập đầu tiên là
năm 1898. ,,,,,”
Bài
nầy nói
về nguồn gốc của chữ “phở“, rất hợp
lý, đả phá cái
chữ Tàu
“ngầu dục phảnh”
(ngưu nhục phấn) mà lâu nay
nhiều người tin
như vậy.
Người ta hay
dịch
những đặc sản của Việt Nam ra
ngoại ngữ vì ghi
tiếng
Việt người
ngoại quốc
không đọc được. Tại sao không
giữ nguyên
chữ Việt như phở, chả giò,
gỏi cuốn…?
Họ
đọc
không đúng thì phiên âm ra
như Tàu hay
Nhựt… Cũng vì
lẽ chữ quốc ngữ dùng
mẫu tự La tinh nên
người mình
chủ quan,
tự cho mình là “may
mắn” và
“thuận lợi” hơn người. Xem
lại có
hơn gì ai không, Tàu,
Nhựt, Cao ly… không có “may
mắn”
như mình có
chữquốc ngữ mà
trình độ của họ bây
giờ ra sao so
với mình ?
Nhiều người còn
lười biếng đến nỗi gõ
chữ Việt không
dấu cho
người ta
vừa đọc vừa đoán
!
NPH
Bên Bát
Phở Trần Thu
Dung
Một
lần anh bạn Việt kiều Mỹ qua Paris chơi, rủ nhau đi ăn tiệm. Tôi hỏi
anh thích nếm hương vị quê hương hay hương vị Pháp. Anh bạn đề
nghị ăn đồ Tây với lý do đến đâu phải nếm đặc sản nước đó, đặc
sản Việt Nam: nem, phở, bún, bánh cuốn… bên Mỹ bán đầy khắp. Hóa ra
đặc sản Việt Nam bây giờ du lịch khắp thế giới, đặc biệt là ở Pháp
và Mỹ – hai nước có lịch sử liên quan đến Việt Nam. Nhiều người
nước ngoài biết đến nem, phở. Điều ngạc nhiên phở là món ăn quốc
hồn quốc túy của Việt Nam không nằm trên mâm cơm thờ cúng tổ tiên.
Tết Việt Nam gắn liền với bánh chưng, nem, măng hầm, bóng xào chứ
không phải phở.
Phở
là món đặc sản truyền thống của Việt Nam. Truyền thống, theo từ điển
Pháp định nghĩa là những vật thể và phi vật thể được truyền từ
thế kỷ này sang thế kỷ khác. Bánh chưng, nem là những món ăn truyền
thống đã có từ nhiều thế kỷ. Phở cũng là món ăn truyền thống, vì
nó đã được nhắc đến trong tùy bút, văn của một số nhà văn thời
tiền chiến, như Nguyễn Công Hoan nhắc đến phở từ 1913 *. Nếu tính
đến năm nay Phở Việt Nam đã có trên 100 năm, truyền từ đầu thế kỷ
20 sang đến thế kỷ 21. Những món ăn có ghi vào trong từ điển là
những món ăn đã nổi tiếng và quen thuộc với dân tộc đó. Phở đã có
mặt trong từ điển.
Bàn
về phở người ta thường nói đến phở bò Bắc Kỳ. Tên gọi chứng minh
thịt bò là nguyên liệu chính.
Trâu
bò thường xuyên gắn với đời sống nông nghiệp ở Việt Nam. Người
nông dân thường tính gia sản không phải bằng tiền vàng, mà số
lượng trâu bò tậu được. Khác với trâu, bò hầu như vắng bóng trong
văn hóa Việt Nam. Trâu được nhắc rất nhiều trong đời sống văn hóa
Việt xưa. Hình ảnh chú bé chăn trâu đã quen thuộc với người Việt
Nam. Đồng tiền Đông Dương do Pháp ấn hành có hình trâu
cày.
Tranh
dân gian hay ca dao, tục ngữ thường chỉ nhắc đến con trâu: con trâu
là đầu cơ nghiệp, ruộng sâu trâu nái, con trâu đi trước cái cày đi
sau. Con bò vắng bóng trong ca dao, tục ngữ Việt Nam, và tranh dân gian.
Lễ hội chọi trâu, đâm trâu là truyền thống lâu đời của dân tộc
Việt Nam còn tồn tại đến ngày nay. Chu kỳ 12 năm trong lịch âm, có
năm trâu, không có năm bò, dù bò cũng gắn liền với nghề nông.
Truyện cổ tích dân gian kể
về sự liên quan mật thiết giữa người và trâu. Cuội đi chăn trâu
lừa phú ông. Trí khôn của ta đây ca ngợi sự thông minh của người
nông dân điều khiển được trâu cày và lừa được hổ. Sự tích trầu
cau để giải thích tục lệ ăn trầu.
Nhiều
món dân tộc đã đi vào thành ngữ ca dao tục ngữ: “Ông ăn chả bà ăn
nem ”, “Tay cầm bầu rượu nắm nem… mải vui quên hết lời em dặn dò”;
“Ra đi anh nhớ quê nhà, nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương”… Nhiều
làng đã gắn với tên tuổi của sản phẩm như bánh cuốn Thanh Trì,
bánh đúc làng Kẻ, tương Cự Đà, cốm làng Vòng, bánh chưng bánh dầy
từ thời Văn Lang… Ca dao truyền khẩu dạy chế biến các món dân gian:
“con gà cục tác lá chanh, con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi, con chó
khóc đứng khóc ngồi, mẹ ơi đi chợ mua tôi đồng riềng”, “Khế xanh nấu
với ốc nhồi, Tuy nước nó xám, nhưng mùi nó
ngon”.
Điểm
qua văn chương cổ không thấy tả vua chúa ăn phở bò, hay tả về món
phở bò. Phở chỉ xuất hiện trong văn thơ thời Pháp thuộc, Tú Mỡ,
Thạch Lam, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan… Bò, và phở gần
như vắng hoàn toàn trong văn hóa dân gian
Việt.
Điều
này chứng tỏ bò và phở xa lạ với người Việt Nam trước thế kỷ 20.
Các sản phẩm từ sữa bò quen thuộc với người châu Âu, xa lạ với
người Việt thời đó: sữa tươi, bơ, phô-ma, sữa chua. Chăn nuôi bò
là một ngành phát triển mạnh ở Pháp. Pháp nổi tiếng có hơn 100
loại phô-ma khác nhau, hầu như đều là sản phẩm từ sữa bò. Khi
người Pháp chiếm Đông Dương, nhu cầu về sữa bò, và phô-ma bơ,
thịt bò là nhu cầu thiết yếu của họ. Cà phê sữa, uống sữa là thói
quen của người Pháp.
Người
Việt Nam chỉ uống trà. Quan niệm xưa chung của dân châu Á, ai uống
sữa động vật nào là sẽ biến thành con vật đó. Chỉ có tầng lớp nhỏ
trung lưu làm việc với Pháp mới biết khẩu vị “Tối
rượu sâm-panh, sáng sữa bò”.Trong cuốn “Địa lý về sữa, in năm 1940,
P. Veyrey đã nhận định: sữa
ở Annam chỉ phục vụ cho một số tầng lớp khá giả. Bò và sản phẩm
từ bò không quen thuộc đối với người Đông Dương. Trẻ con ở đây bú
mẹ đến 3, 5 tuổi. Dân các nước Đông Nam Á không dùng sữa, bơ. “Dân
bơ sữa” là thành ngữ mới, chỉ đám con nhà giàu sang. Việt Nam chỉ
nuôi trâu. Trâu khỏe giúp cho cày ruộng. Chỉ khi nào trâu chết, hay
già, ốm yếu mới được ăn thịt. Thời trước chỉ có món xáo trâu.
Không có món ăn nào của Việt Nam liên quan đến thịt bò được nhắc
đến trước thế kỷ 20. Chứng tỏ bò hầu như không có mặt ở Việt
Nam.
Bò
châu Á là giống bé nhỏ, có bướu và rất ít do không đem nhiều lợi
ích trong cuộc sống như trâu. Trâu to và khỏe, sức chịu đựng dẻo
dai. Người nông dân Việt trước kia nuôi trâu. Người Pháp khi đến
Đông Dương chê bò có bướu châu Á còi cọc, ốm yếu, gầy giơ
xương, túi hai bên sườn rỗng, không có thịt. Người Pháp đã quyết
định nhập bò sữa từ Normandie, và một số từ Ấn Độ, bò Thụy Sỹ, bò
Bretagne và cho lai tạo với hy vọng tạo ra một giống bò mới, to khỏe
chịu đựng được khí hậu nhiệt đới, và cho nhiều sữa,
thịt.
Bác
sĩ Yersin đã đệ thư xin chính phủ bảo hộ cho nhập bò, gà Thụy Sỹ.
Năm 1898, Pháp đã bắt đầu nhập bò vào Việt Nam. Chuyên gia nuôi bò
ở Limousin được gửi sang Đông Dương để hướng dẫn cách nuôi. Do
chặng đường vận chuyển bằng tàu thủy từ Marseille đến Đông Dương
và khí hậu thay đổi hoàn toàn khác, nhiều con đã chết hay kiệt sức
trên đường đi. Một số bò được thử thả nuôi, chết vì hổ, voi rừng.
Sau đó bò được giao cho nông dân nuôi (có lẽ từ đó người nông dân
Việt Nam mới nuôi bò). Người Pháp dạy cho nông dân bản xứ cách
nuôi bò, vắt sữa.
Sữa
và thịt bò chỉ bán trong các thành phố lớn và chỉ có người Pháp
tiêu thụ vì giá thành quá cao. 1 cân thịt bò 30 cents. Cũng vì vậy
công nghệ làm bơ, phô-ma không thể làm tại địa phương, phải nhập
từ mẫu quốc do số lượng người dùng ít. Việc nuôi bò thịt và sữa
không đem lại lợi nhuận so với khai thác cà phê, cao xu, mỏ… Chăn
nuôi bò gần như không thành công tại Đông
Dương.
Như
vậy công nghệ chăn nuôi bò lấy thịt và sữa là do người Pháp đem
vào. Điều đó khẳng định phở bò chỉ có đầu thế kỷ 20 vì chuyến bò
nhập đầu tiên là năm 1898.
Bò
rất hiếm, đương nhiên quý nên đắt tiền. Mổ bò là ngày hội lớn
của làng, phải đem ra bàn bạc ở đình làng vì vậy mới có thành ngữ
ồn ào (cãi nhau) như mổ bò là thành ngữ mới. Một vài thành ngữ
mới xuất hiện đầu thế kỷ 20: Trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết; Ngu
như bò, cùng với trò chơi đấu bò, thi cưỡi bò ở miền Tây. Thời
nay phở trở nên món ăn hấp dẫn quen thuộc nên được ví như
bồ.
Cuốn
từ điển của Alexandre de Rhodes năm 1651 không có từ phở. Trong bài
khảo luận về dân Bắc Kỳ, Tạp chí Đông Dương (15/9/1907), Georges
Dumoutier nói về những món ăn phổ biến ở Bắc Kỳ, không điểm danh
phở. Khảo sát việc nhập bò, chăn nuôi bò thời Đông Dương chứng
minh phở
chỉ xuất hiện đầu thế kỷ 20. Phở sớm được ưa thích, nên phở xuất
hiện trong văn thơ thời Pháp thuộc, và chỉ hơn chục năm sau, phở có
trong từ điển. Từ điển của Gustave Hue (Dictionnaire Annamite – Chinois –
Français) xuất bản năm 1937 định nghĩa: “Cháo phở :
pot-au-feu”.
Người
Pháp dịch món PHỞ là pot au feu (pô-tô-phơ). Pot au feu – món súp hầm
thịt bò là món ăn truyền thống của Pháp. Phở chính là sự sáng tạo
của người Việt khi giao lưu với văn hóa ẩm thực Pháp. Xét về
nguyên liệu thì nồi nước súp cổ truyền của người Pháp gần giống
nồi nước dùng nấu phở trừ rau củ. Thịt bò toàn những thứ cứng và
dai : đuôi, gân, sườn, đùi thăn, dạ dày, bạc nhạc. Tất cả hầm chung
với hành củ và quế, hoa hồi, hạt tiêu. Nước dùng được lọc 1 lần
cho trong, khi thịt gân mềm cho rau, củ (cà rốt, cần tây, khoai tây).
Phở có dùng hành tây nướng, bóc vỏ bỏ vào nước dùng cho thơm.
Hành Tây củ chỉ có khi Pháp vào Việt Nam, nên gọi là hành Tây. Anis
(hoa hồi) cũng không phải là hương vị quen thuộc của người
Việt.
Người
Pháp sống ở Đông dương với nỗi nhớ quê hương và các món ăn dân
tộc họ. Họ đã bày cho những người đầu bếp Việt Nam nấu món này.
Thấy món ăn hấp dẫn dễ ăn, người Việt đã Việt Nam hóa một cách
sáng tạo món súp bò của Pháp bằng cách dùng thêm hương liệu Việt
Nam có sẵn như gừng nướng, quế và thay thế khoai tây bằng bánh đa
tươi thái sợi. Bánh đa, bánh cuốn là bánh có từ lâu đời của
người Việt Nam. Nước dùng nấu như pot au feu nhưng không cho rau củ.
Người Pháp khi ăn súp này thì vớt thịt miếng to cho vào đĩa sâu, ai
ăn thì tự lấy cắt nhỏ ra, rưới thêm nước súp và rau khoai, ăn với
bánh mỳ.
Người
Việt không dùng dao nĩa như người Pháp, mà dùng đũa, nên thịt thái
nhỏ theo phong tục thói quen người Việt. Hơn nữa, thời đó xã hội
Việt Nam còn nghèo, miếng thịt to như thế là một thứ xa xỉ phẩm.
Nhiều chuyện kể, bố và bạn ngồi nhấm rượu với thịt, vợ con ngồi
chờ dưới bếp thập thò hy vọng còn thừa để ăn. Thái thịt chín mỏng
là tài nghệ của người đầu bếp. Thịt chín, thịt gân thái mỏng giơ
lên thấy cả ánh sáng mặt trời, nhưng không được rách vỡ, miếng
gân, ngầu trong vắt, khi rưới nước phở lên, nước dùng thấm xuyên
qua miếng thịt, ăn miếng thịt mới cảm thấy đậm đà. Thịt hầm không
nát. Gân phải mềm.
Người
Pháp ăn món súp bò thả hành và rắc rau mùi tây lên trên. Việt Nam,
phở bò nguyên gốc Hà Nội cũng chỉ rắc hành và mùi và thịt chín.
Thịt bò nạc mềm đắt, nên chỉ dùng nguyên liệu rẻ tiền nhất trong
thịt bò. Theo Clotilde Chivas-Baron, Marie-Paule Ha kể các Sơ đầu tiên
đến Đông Dương
nhận quà tặng là một con bò sữa khi mới thành lập “La Sainte Enfance”
ở Sài gòn. Lúc đó ban truyền giáo nghèo, nhà lợp lá, 20/05/1860.
Trại có chuồng nuôi gà và một con dê,…”. Bò là món quà tặng quý
hiếm lúc đó. Nên mặc dù nguyên liệu nấu phở bò là thứ rẻ tiền
nhất, phở thời đó chưa phải là món bình dân như thời nay. Giá một
bát phở từ 2 đến 5 xu, tương đương một ngày công lao động vất vả
của người công nhân làm cho Pháp.
Phở
xuất hiện đầu thế kỷ 20, do đó không có mặt trong ngày Tết cổ
truyền dân tộc.
Phở
là món ăn ảnh hưởng món súp bò của Pháp. Vậy từ phở do
chữ “Feu
/ phơ” mà
ra. Tiếng Việt đơn âm, người Việt lúc đó đại đa số không biết
tiếng Pháp, do tiếp xúc làm việc phục vụ cho người Pháp, họ nói
tiếng Tây bồi, họ thường hay rút ngắn từ tiếng Pháp, nhất là khi
nghe không rõ, họ có thói quen lấy từ đầu hay từ cuối cùng để gọi.
Thí dụ như Galon (phù hiệu quân hàm) gọi đơn giản là lon, biscuit
(bánh qui – lấy âm qui đằng sau từ
biscuit), chèque (séc), essence (xăng), affaire (phe), démarrer (đề),
alcool (cồn), beige (be), dentelle (ren, cartouche
(tút)…
Chỉ
có người Pháp thời đó làm việc quen với mấy người phục vụ mới
hiểu được tiếng Tây bồi này. Tiếng bồi này thời đó là oai vì làm
việc cho Tây và nói Tây hiểu, dần dần lan ra dân chúng, trở nên
ngôn ngữ mới. Hầu như là những từ không có ở Việt Nam, như xăng,
cồn, tút, đề…. và các món ăn của Pháp như bơ, phô-ma, biscuit…
Riêng sữa có từ ở Việt Nam, nên không vay mượn từ của Pháp kiểu
đó. Sự biến đổi những từ đa âm thành từ đơn âm là cách Việt hóa
các từ Pháp. Người bồi bếp đã đọc chữ cuối FEU thành PHỞ. Từ đó
có từ phở.
Phở
là món ăn của Bắc Kỳ (theo từ điển của Pháp sau này họ dịch là
soupe tonkinoise – súp Bắc Kỳ). Điều này khẳng định phở xuất hiện ở
miền Bắc.
Người
Tàu không có món phở, không có chữ phở. Ở nước ngoài, quán ăn
nào của người Tàu có món phở, họ có ghi bằng tiếng Việt: phở bò
Việt Nam (Vietnamese Nalle phở noodle soup with sliced rare beef and well done
beef brisket).
Trong
khi người Tàu thừa nhận phở là đặc sản của Việt Nam, thì một vài
người Việt lại loay hoay chứng minh chữ phở là của gốc tiếng Tàu,
và món phở từ món ngưu lục phấn của Tàu (mì trâu). Món phở xuất
phát từ món súp bò của Pháp. Phở là sự kết hợp thông minh sáng
tạo từ món súp bò Pháp với nguyên liệu cổ truyền của Việt Nam. Từ
điển do người Pháp soạn cũng ghi phở: món súp Bắc Kỳ. Spagetti của
Ý là do Marco Polo mang mỳ từ Tàu về. Sự sáng tạo thông minh của
người đầu bếp Ý đã biến món mỳ Tàu thành món spagetti nổi tiếng
thế giới. Sushi Nhật bản là từ cơm nắm – món
ăn dân dã của nhiều nước châu Á. Không ai nói Spagetti, Sushi của
Tầu… Trong khi đó thật đáng buồn, cuốn từ điển Việt-Pháp do Lê Khả
Kế và Nguyễn Lân biên soạn, tái bản lần thứ 4, bên trong đề có
chỉnh sửa, do nxb Khoa học Xã hội in năm 1997, dịch Phở là soupe
chinoise (súp Tàu).
Những lưu ý khi dọn dẹp bàn thờ
Những lưu ý khi dọn dẹp bàn thờ
-
-
Một
cuốn từ điển cũng để chứng minh văn hóa dân tộc. Phở là một đặc
sản của Việt Nam, vậy mà dịch sang tiếng Pháp là súp Tàu. Nếu
người Tàu lấy đó làm bằng chứng phở là đặc sản của họ thì lúc
đó ban biên tập nxb Khoa học Xã hội cùng hai tác giả nói gì để tranh
cãi. Từ điển là tài liệu sống. Một sự sơ xuất vô tình có khi mất
nước. “Bút sa gà chết”. Sự phân chia biên giới Tàu-Việt đã là bài
học đau đớn cho sự yếu về quân sự và thiếu tư liệu văn hóa cổ.
Một thời kỳ ngớ ngẩn theo Tàu, đã đốt những sách, tư liệu “có hơi
chữ Tây” trong đó. Giờ chúng ta lại phải cử người qua Pháp để
tìm lại.
Ẩm thực cũng là văn hóa của một dân tộc. Khi tranh cãi chủquyền về
văn hóa, về đất đai, người ta luôn đem sách vở, văn chương làm
bằng chứng. Để bảo vệ giữ gìn văn hóa cũng như giữ gìn bảo vệ
đất nước, những người cầm bút phải có trách nhiệm rất lớn và
việc đầu tư cho văn hóa là cần thiết và quan trọng. Văn hóa là một
lĩnh vực rộng lớn bao hàm cả mọi vấn đề xã hội. Muốn giữ gìn văn
hóa trước hết phải quan tâm đến người làm văn hóa và có những
chính sách tài trợ thích đáng để họ bỏ công bỏ sức đi sưu tầm tài
liệu.
Phở
chính là sự sáng tạo tuyệt vời của những đầu bếp Việt Nam thời đó.
Họ đã thả hồn Việt vào trong phở. Giao lưu văn hóa có nhiều cái
lợi. Nếu tài giỏi thông minh biết kết hợp cái cổ truyền và cái mới
sẽ tạo ra những tuyệt tác mang phong cách và hồn dân tộc. Bắt chước
sáng tạo ra cái mới đòi hỏi tài nghệ và thông minh của người sáng
tạo. Phở là một vinh danh trong văn hóa ẩm thực Việt trong quá trình
giao lưu với văn hóa ẩm thực phương Tây.
Hestia sưu
tầm
Phở
chính là sự sáng tạo tuyệt vời của những đầu bếp Việt Nam thời đó.
Họ đã thả hồn Việt vào trong phở. Giao lưu văn hóa có nhiều cái
lợi. Nếu tài giỏi thông minh biết kết hợp cái cổ truyền và cái mới
sẽ tạo ra những tuyệt tác mang phong cách và hồn dân tộc. Bắt chước
sáng tạo ra cái mới đòi hỏi tài nghệ và thông minh của người sáng
tạo. Phở là một vinh danh trong văn hóa ẩm thực Việt trong quá trình
giao lưu với văn hóa ẩm thực phương Tây.
Hestia sưu
tầm
Nguồn gốc món phở
“,,,,chăn
nuôi bò lấy thịt và sữa là do người Pháp đem vào. Điều đó khẳng
định phở bò chỉ có đầu thế kỷ 20 vì chuyến bò nhập đầu tiên là
năm 1898. ,,,,,”
Bài
nầy nói
về nguồn gốc của chữ “phở“, rất hợp
lý, đả phá cái
chữ Tàu
“ngầu dục phảnh”
(ngưu nhục phấn) mà lâu nay
nhiều người tin
như vậy.
Người ta hay
dịch
những đặc sản của Việt Nam ra
ngoại ngữ vì ghi
tiếng
Việt người
ngoại quốc
không đọc được. Tại sao không
giữ nguyên
chữ Việt như phở, chả giò,
gỏi cuốn…?
Họ
đọc
không đúng thì phiên âm ra
như Tàu hay
Nhựt… Cũng vì
lẽ chữ quốc ngữ dùng
mẫu tự La tinh nên
người mình
chủ quan,
tự cho mình là “may
mắn” và
“thuận lợi” hơn người. Xem
lại có
hơn gì ai không, Tàu,
Nhựt, Cao ly… không có “may
mắn”
như mình có
chữquốc ngữ mà
trình độ của họ bây
giờ ra sao so
với mình ?
Nhiều người còn
lười biếng đến nỗi gõ
chữ Việt không
dấu cho
người ta
vừa đọc vừa đoán
!
NPH
Bên Bát
Phở Trần Thu
Dung
Một
lần anh bạn Việt kiều Mỹ qua Paris chơi, rủ nhau đi ăn tiệm. Tôi hỏi
anh thích nếm hương vị quê hương hay hương vị Pháp. Anh bạn đề
nghị ăn đồ Tây với lý do đến đâu phải nếm đặc sản nước đó, đặc
sản Việt Nam: nem, phở, bún, bánh cuốn… bên Mỹ bán đầy khắp. Hóa ra
đặc sản Việt Nam bây giờ du lịch khắp thế giới, đặc biệt là ở Pháp
và Mỹ – hai nước có lịch sử liên quan đến Việt Nam. Nhiều người
nước ngoài biết đến nem, phở. Điều ngạc nhiên phở là món ăn quốc
hồn quốc túy của Việt Nam không nằm trên mâm cơm thờ cúng tổ tiên.
Tết Việt Nam gắn liền với bánh chưng, nem, măng hầm, bóng xào chứ
không phải phở.
Phở
là món đặc sản truyền thống của Việt Nam. Truyền thống, theo từ điển
Pháp định nghĩa là những vật thể và phi vật thể được truyền từ
thế kỷ này sang thế kỷ khác. Bánh chưng, nem là những món ăn truyền
thống đã có từ nhiều thế kỷ. Phở cũng là món ăn truyền thống, vì
nó đã được nhắc đến trong tùy bút, văn của một số nhà văn thời
tiền chiến, như Nguyễn Công Hoan nhắc đến phở từ 1913 *. Nếu tính
đến năm nay Phở Việt Nam đã có trên 100 năm, truyền từ đầu thế kỷ
20 sang đến thế kỷ 21. Những món ăn có ghi vào trong từ điển là
những món ăn đã nổi tiếng và quen thuộc với dân tộc đó. Phở đã có
mặt trong từ điển.
Bàn
về phở người ta thường nói đến phở bò Bắc Kỳ. Tên gọi chứng minh
thịt bò là nguyên liệu chính.
Trâu
bò thường xuyên gắn với đời sống nông nghiệp ở Việt Nam. Người
nông dân thường tính gia sản không phải bằng tiền vàng, mà số
lượng trâu bò tậu được. Khác với trâu, bò hầu như vắng bóng trong
văn hóa Việt Nam. Trâu được nhắc rất nhiều trong đời sống văn hóa
Việt xưa. Hình ảnh chú bé chăn trâu đã quen thuộc với người Việt
Nam. Đồng tiền Đông Dương do Pháp ấn hành có hình trâu
cày.
Tranh
dân gian hay ca dao, tục ngữ thường chỉ nhắc đến con trâu: con trâu
là đầu cơ nghiệp, ruộng sâu trâu nái, con trâu đi trước cái cày đi
sau. Con bò vắng bóng trong ca dao, tục ngữ Việt Nam, và tranh dân gian.
Lễ hội chọi trâu, đâm trâu là truyền thống lâu đời của dân tộc
Việt Nam còn tồn tại đến ngày nay. Chu kỳ 12 năm trong lịch âm, có
năm trâu, không có năm bò, dù bò cũng gắn liền với nghề nông.
Truyện cổ tích dân gian kể
về sự liên quan mật thiết giữa người và trâu. Cuội đi chăn trâu
lừa phú ông. Trí khôn của ta đây ca ngợi sự thông minh của người
nông dân điều khiển được trâu cày và lừa được hổ. Sự tích trầu
cau để giải thích tục lệ ăn trầu.
Nhiều
món dân tộc đã đi vào thành ngữ ca dao tục ngữ: “Ông ăn chả bà ăn
nem ”, “Tay cầm bầu rượu nắm nem… mải vui quên hết lời em dặn dò”;
“Ra đi anh nhớ quê nhà, nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương”… Nhiều
làng đã gắn với tên tuổi của sản phẩm như bánh cuốn Thanh Trì,
bánh đúc làng Kẻ, tương Cự Đà, cốm làng Vòng, bánh chưng bánh dầy
từ thời Văn Lang… Ca dao truyền khẩu dạy chế biến các món dân gian:
“con gà cục tác lá chanh, con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi, con chó
khóc đứng khóc ngồi, mẹ ơi đi chợ mua tôi đồng riềng”, “Khế xanh nấu
với ốc nhồi, Tuy nước nó xám, nhưng mùi nó
ngon”.
Điểm
qua văn chương cổ không thấy tả vua chúa ăn phở bò, hay tả về món
phở bò. Phở chỉ xuất hiện trong văn thơ thời Pháp thuộc, Tú Mỡ,
Thạch Lam, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan… Bò, và phở gần
như vắng hoàn toàn trong văn hóa dân gian
Việt.
Điều
này chứng tỏ bò và phở xa lạ với người Việt Nam trước thế kỷ 20.
Các sản phẩm từ sữa bò quen thuộc với người châu Âu, xa lạ với
người Việt thời đó: sữa tươi, bơ, phô-ma, sữa chua. Chăn nuôi bò
là một ngành phát triển mạnh ở Pháp. Pháp nổi tiếng có hơn 100
loại phô-ma khác nhau, hầu như đều là sản phẩm từ sữa bò. Khi
người Pháp chiếm Đông Dương, nhu cầu về sữa bò, và phô-ma bơ,
thịt bò là nhu cầu thiết yếu của họ. Cà phê sữa, uống sữa là thói
quen của người Pháp.
Người
Việt Nam chỉ uống trà. Quan niệm xưa chung của dân châu Á, ai uống
sữa động vật nào là sẽ biến thành con vật đó. Chỉ có tầng lớp nhỏ
trung lưu làm việc với Pháp mới biết khẩu vị “Tối
rượu sâm-panh, sáng sữa bò”.Trong cuốn “Địa lý về sữa, in năm 1940,
P. Veyrey đã nhận định: sữa
ở Annam chỉ phục vụ cho một số tầng lớp khá giả. Bò và sản phẩm
từ bò không quen thuộc đối với người Đông Dương. Trẻ con ở đây bú
mẹ đến 3, 5 tuổi. Dân các nước Đông Nam Á không dùng sữa, bơ. “Dân
bơ sữa” là thành ngữ mới, chỉ đám con nhà giàu sang. Việt Nam chỉ
nuôi trâu. Trâu khỏe giúp cho cày ruộng. Chỉ khi nào trâu chết, hay
già, ốm yếu mới được ăn thịt. Thời trước chỉ có món xáo trâu.
Không có món ăn nào của Việt Nam liên quan đến thịt bò được nhắc
đến trước thế kỷ 20. Chứng tỏ bò hầu như không có mặt ở Việt
Nam.
Bò
châu Á là giống bé nhỏ, có bướu và rất ít do không đem nhiều lợi
ích trong cuộc sống như trâu. Trâu to và khỏe, sức chịu đựng dẻo
dai. Người nông dân Việt trước kia nuôi trâu. Người Pháp khi đến
Đông Dương chê bò có bướu châu Á còi cọc, ốm yếu, gầy giơ
xương, túi hai bên sườn rỗng, không có thịt. Người Pháp đã quyết
định nhập bò sữa từ Normandie, và một số từ Ấn Độ, bò Thụy Sỹ, bò
Bretagne và cho lai tạo với hy vọng tạo ra một giống bò mới, to khỏe
chịu đựng được khí hậu nhiệt đới, và cho nhiều sữa,
thịt.
Bác
sĩ Yersin đã đệ thư xin chính phủ bảo hộ cho nhập bò, gà Thụy Sỹ.
Năm 1898, Pháp đã bắt đầu nhập bò vào Việt Nam. Chuyên gia nuôi bò
ở Limousin được gửi sang Đông Dương để hướng dẫn cách nuôi. Do
chặng đường vận chuyển bằng tàu thủy từ Marseille đến Đông Dương
và khí hậu thay đổi hoàn toàn khác, nhiều con đã chết hay kiệt sức
trên đường đi. Một số bò được thử thả nuôi, chết vì hổ, voi rừng.
Sau đó bò được giao cho nông dân nuôi (có lẽ từ đó người nông dân
Việt Nam mới nuôi bò). Người Pháp dạy cho nông dân bản xứ cách
nuôi bò, vắt sữa.
Sữa
và thịt bò chỉ bán trong các thành phố lớn và chỉ có người Pháp
tiêu thụ vì giá thành quá cao. 1 cân thịt bò 30 cents. Cũng vì vậy
công nghệ làm bơ, phô-ma không thể làm tại địa phương, phải nhập
từ mẫu quốc do số lượng người dùng ít. Việc nuôi bò thịt và sữa
không đem lại lợi nhuận so với khai thác cà phê, cao xu, mỏ… Chăn
nuôi bò gần như không thành công tại Đông
Dương.
Như
vậy công nghệ chăn nuôi bò lấy thịt và sữa là do người Pháp đem
vào. Điều đó khẳng định phở bò chỉ có đầu thế kỷ 20 vì chuyến bò
nhập đầu tiên là năm 1898.
Bò
rất hiếm, đương nhiên quý nên đắt tiền. Mổ bò là ngày hội lớn
của làng, phải đem ra bàn bạc ở đình làng vì vậy mới có thành ngữ
ồn ào (cãi nhau) như mổ bò là thành ngữ mới. Một vài thành ngữ
mới xuất hiện đầu thế kỷ 20: Trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết; Ngu
như bò, cùng với trò chơi đấu bò, thi cưỡi bò ở miền Tây. Thời
nay phở trở nên món ăn hấp dẫn quen thuộc nên được ví như
bồ.
Cuốn
từ điển của Alexandre de Rhodes năm 1651 không có từ phở. Trong bài
khảo luận về dân Bắc Kỳ, Tạp chí Đông Dương (15/9/1907), Georges
Dumoutier nói về những món ăn phổ biến ở Bắc Kỳ, không điểm danh
phở. Khảo sát việc nhập bò, chăn nuôi bò thời Đông Dương chứng
minh phở
chỉ xuất hiện đầu thế kỷ 20. Phở sớm được ưa thích, nên phở xuất
hiện trong văn thơ thời Pháp thuộc, và chỉ hơn chục năm sau, phở có
trong từ điển. Từ điển của Gustave Hue (Dictionnaire Annamite – Chinois –
Français) xuất bản năm 1937 định nghĩa: “Cháo phở :
pot-au-feu”.
Người
Pháp dịch món PHỞ là pot au feu (pô-tô-phơ). Pot au feu – món súp hầm
thịt bò là món ăn truyền thống của Pháp. Phở chính là sự sáng tạo
của người Việt khi giao lưu với văn hóa ẩm thực Pháp. Xét về
nguyên liệu thì nồi nước súp cổ truyền của người Pháp gần giống
nồi nước dùng nấu phở trừ rau củ. Thịt bò toàn những thứ cứng và
dai : đuôi, gân, sườn, đùi thăn, dạ dày, bạc nhạc. Tất cả hầm chung
với hành củ và quế, hoa hồi, hạt tiêu. Nước dùng được lọc 1 lần
cho trong, khi thịt gân mềm cho rau, củ (cà rốt, cần tây, khoai tây).
Phở có dùng hành tây nướng, bóc vỏ bỏ vào nước dùng cho thơm.
Hành Tây củ chỉ có khi Pháp vào Việt Nam, nên gọi là hành Tây. Anis
(hoa hồi) cũng không phải là hương vị quen thuộc của người
Việt.
Người
Pháp sống ở Đông dương với nỗi nhớ quê hương và các món ăn dân
tộc họ. Họ đã bày cho những người đầu bếp Việt Nam nấu món này.
Thấy món ăn hấp dẫn dễ ăn, người Việt đã Việt Nam hóa một cách
sáng tạo món súp bò của Pháp bằng cách dùng thêm hương liệu Việt
Nam có sẵn như gừng nướng, quế và thay thế khoai tây bằng bánh đa
tươi thái sợi. Bánh đa, bánh cuốn là bánh có từ lâu đời của
người Việt Nam. Nước dùng nấu như pot au feu nhưng không cho rau củ.
Người Pháp khi ăn súp này thì vớt thịt miếng to cho vào đĩa sâu, ai
ăn thì tự lấy cắt nhỏ ra, rưới thêm nước súp và rau khoai, ăn với
bánh mỳ.
Người
Việt không dùng dao nĩa như người Pháp, mà dùng đũa, nên thịt thái
nhỏ theo phong tục thói quen người Việt. Hơn nữa, thời đó xã hội
Việt Nam còn nghèo, miếng thịt to như thế là một thứ xa xỉ phẩm.
Nhiều chuyện kể, bố và bạn ngồi nhấm rượu với thịt, vợ con ngồi
chờ dưới bếp thập thò hy vọng còn thừa để ăn. Thái thịt chín mỏng
là tài nghệ của người đầu bếp. Thịt chín, thịt gân thái mỏng giơ
lên thấy cả ánh sáng mặt trời, nhưng không được rách vỡ, miếng
gân, ngầu trong vắt, khi rưới nước phở lên, nước dùng thấm xuyên
qua miếng thịt, ăn miếng thịt mới cảm thấy đậm đà. Thịt hầm không
nát. Gân phải mềm.
Người
Pháp ăn món súp bò thả hành và rắc rau mùi tây lên trên. Việt Nam,
phở bò nguyên gốc Hà Nội cũng chỉ rắc hành và mùi và thịt chín.
Thịt bò nạc mềm đắt, nên chỉ dùng nguyên liệu rẻ tiền nhất trong
thịt bò. Theo Clotilde Chivas-Baron, Marie-Paule Ha kể các Sơ đầu tiên
đến Đông Dương
nhận quà tặng là một con bò sữa khi mới thành lập “La Sainte Enfance”
ở Sài gòn. Lúc đó ban truyền giáo nghèo, nhà lợp lá, 20/05/1860.
Trại có chuồng nuôi gà và một con dê,…”. Bò là món quà tặng quý
hiếm lúc đó. Nên mặc dù nguyên liệu nấu phở bò là thứ rẻ tiền
nhất, phở thời đó chưa phải là món bình dân như thời nay. Giá một
bát phở từ 2 đến 5 xu, tương đương một ngày công lao động vất vả
của người công nhân làm cho Pháp.
Phở
xuất hiện đầu thế kỷ 20, do đó không có mặt trong ngày Tết cổ
truyền dân tộc.
Phở
là món ăn ảnh hưởng món súp bò của Pháp. Vậy từ phở do
chữ “Feu
/ phơ” mà
ra. Tiếng Việt đơn âm, người Việt lúc đó đại đa số không biết
tiếng Pháp, do tiếp xúc làm việc phục vụ cho người Pháp, họ nói
tiếng Tây bồi, họ thường hay rút ngắn từ tiếng Pháp, nhất là khi
nghe không rõ, họ có thói quen lấy từ đầu hay từ cuối cùng để gọi.
Thí dụ như Galon (phù hiệu quân hàm) gọi đơn giản là lon, biscuit
(bánh qui – lấy âm qui đằng sau từ
biscuit), chèque (séc), essence (xăng), affaire (phe), démarrer (đề),
alcool (cồn), beige (be), dentelle (ren, cartouche
(tút)…
Chỉ
có người Pháp thời đó làm việc quen với mấy người phục vụ mới
hiểu được tiếng Tây bồi này. Tiếng bồi này thời đó là oai vì làm
việc cho Tây và nói Tây hiểu, dần dần lan ra dân chúng, trở nên
ngôn ngữ mới. Hầu như là những từ không có ở Việt Nam, như xăng,
cồn, tút, đề…. và các món ăn của Pháp như bơ, phô-ma, biscuit…
Riêng sữa có từ ở Việt Nam, nên không vay mượn từ của Pháp kiểu
đó. Sự biến đổi những từ đa âm thành từ đơn âm là cách Việt hóa
các từ Pháp. Người bồi bếp đã đọc chữ cuối FEU thành PHỞ. Từ đó
có từ phở.
Phở
là món ăn của Bắc Kỳ (theo từ điển của Pháp sau này họ dịch là
soupe tonkinoise – súp Bắc Kỳ). Điều này khẳng định phở xuất hiện ở
miền Bắc.
Người
Tàu không có món phở, không có chữ phở. Ở nước ngoài, quán ăn
nào của người Tàu có món phở, họ có ghi bằng tiếng Việt: phở bò
Việt Nam (Vietnamese Nalle phở noodle soup with sliced rare beef and well done
beef brisket).
Trong
khi người Tàu thừa nhận phở là đặc sản của Việt Nam, thì một vài
người Việt lại loay hoay chứng minh chữ phở là của gốc tiếng Tàu,
và món phở từ món ngưu lục phấn của Tàu (mì trâu). Món phở xuất
phát từ món súp bò của Pháp. Phở là sự kết hợp thông minh sáng
tạo từ món súp bò Pháp với nguyên liệu cổ truyền của Việt Nam. Từ
điển do người Pháp soạn cũng ghi phở: món súp Bắc Kỳ. Spagetti của
Ý là do Marco Polo mang mỳ từ Tàu về. Sự sáng tạo thông minh của
người đầu bếp Ý đã biến món mỳ Tàu thành món spagetti nổi tiếng
thế giới. Sushi Nhật bản là từ cơm nắm – món
ăn dân dã của nhiều nước châu Á. Không ai nói Spagetti, Sushi của
Tầu… Trong khi đó thật đáng buồn, cuốn từ điển Việt-Pháp do Lê Khả
Kế và Nguyễn Lân biên soạn, tái bản lần thứ 4, bên trong đề có
chỉnh sửa, do nxb Khoa học Xã hội in năm 1997, dịch Phở là soupe
chinoise (súp Tàu).
“,,,,chăn
nuôi bò lấy thịt và sữa là do người Pháp đem vào. Điều đó khẳng
định phở bò chỉ có đầu thế kỷ 20 vì chuyến bò nhập đầu tiên là
năm 1898. ,,,,,”
Bài
nầy nói
về nguồn gốc của chữ “phở“, rất hợp
lý, đả phá cái
chữ Tàu
“ngầu dục phảnh”
(ngưu nhục phấn) mà lâu nay
nhiều người tin
như vậy.
Người ta hay
dịch
những đặc sản của Việt Nam ra
ngoại ngữ vì ghi
tiếng
Việt người
ngoại quốc
không đọc được. Tại sao không
giữ nguyên
chữ Việt như phở, chả giò,
gỏi cuốn…?
Họ
đọc
không đúng thì phiên âm ra
như Tàu hay
Nhựt… Cũng vì
lẽ chữ quốc ngữ dùng
mẫu tự La tinh nên
người mình
chủ quan,
tự cho mình là “may
mắn” và
“thuận lợi” hơn người. Xem
lại có
hơn gì ai không, Tàu,
Nhựt, Cao ly… không có “may
mắn”
như mình có
chữquốc ngữ mà
trình độ của họ bây
giờ ra sao so
với mình ?
Nhiều người còn
lười biếng đến nỗi gõ
chữ Việt không
dấu cho
người ta
vừa đọc vừa đoán
!
NPH
Bên Bát
Phở Trần Thu
Dung
Một
lần anh bạn Việt kiều Mỹ qua Paris chơi, rủ nhau đi ăn tiệm. Tôi hỏi
anh thích nếm hương vị quê hương hay hương vị Pháp. Anh bạn đề
nghị ăn đồ Tây với lý do đến đâu phải nếm đặc sản nước đó, đặc
sản Việt Nam: nem, phở, bún, bánh cuốn… bên Mỹ bán đầy khắp. Hóa ra
đặc sản Việt Nam bây giờ du lịch khắp thế giới, đặc biệt là ở Pháp
và Mỹ – hai nước có lịch sử liên quan đến Việt Nam. Nhiều người
nước ngoài biết đến nem, phở. Điều ngạc nhiên phở là món ăn quốc
hồn quốc túy của Việt Nam không nằm trên mâm cơm thờ cúng tổ tiên.
Tết Việt Nam gắn liền với bánh chưng, nem, măng hầm, bóng xào chứ
không phải phở.
Phở
là món đặc sản truyền thống của Việt Nam. Truyền thống, theo từ điển
Pháp định nghĩa là những vật thể và phi vật thể được truyền từ
thế kỷ này sang thế kỷ khác. Bánh chưng, nem là những món ăn truyền
thống đã có từ nhiều thế kỷ. Phở cũng là món ăn truyền thống, vì
nó đã được nhắc đến trong tùy bút, văn của một số nhà văn thời
tiền chiến, như Nguyễn Công Hoan nhắc đến phở từ 1913 *. Nếu tính
đến năm nay Phở Việt Nam đã có trên 100 năm, truyền từ đầu thế kỷ
20 sang đến thế kỷ 21. Những món ăn có ghi vào trong từ điển là
những món ăn đã nổi tiếng và quen thuộc với dân tộc đó. Phở đã có
mặt trong từ điển.
Bàn
về phở người ta thường nói đến phở bò Bắc Kỳ. Tên gọi chứng minh
thịt bò là nguyên liệu chính.
Trâu
bò thường xuyên gắn với đời sống nông nghiệp ở Việt Nam. Người
nông dân thường tính gia sản không phải bằng tiền vàng, mà số
lượng trâu bò tậu được. Khác với trâu, bò hầu như vắng bóng trong
văn hóa Việt Nam. Trâu được nhắc rất nhiều trong đời sống văn hóa
Việt xưa. Hình ảnh chú bé chăn trâu đã quen thuộc với người Việt
Nam. Đồng tiền Đông Dương do Pháp ấn hành có hình trâu
cày.
Tranh
dân gian hay ca dao, tục ngữ thường chỉ nhắc đến con trâu: con trâu
là đầu cơ nghiệp, ruộng sâu trâu nái, con trâu đi trước cái cày đi
sau. Con bò vắng bóng trong ca dao, tục ngữ Việt Nam, và tranh dân gian.
Lễ hội chọi trâu, đâm trâu là truyền thống lâu đời của dân tộc
Việt Nam còn tồn tại đến ngày nay. Chu kỳ 12 năm trong lịch âm, có
năm trâu, không có năm bò, dù bò cũng gắn liền với nghề nông.
Truyện cổ tích dân gian kể
về sự liên quan mật thiết giữa người và trâu. Cuội đi chăn trâu
lừa phú ông. Trí khôn của ta đây ca ngợi sự thông minh của người
nông dân điều khiển được trâu cày và lừa được hổ. Sự tích trầu
cau để giải thích tục lệ ăn trầu.
Nhiều
món dân tộc đã đi vào thành ngữ ca dao tục ngữ: “Ông ăn chả bà ăn
nem ”, “Tay cầm bầu rượu nắm nem… mải vui quên hết lời em dặn dò”;
“Ra đi anh nhớ quê nhà, nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương”… Nhiều
làng đã gắn với tên tuổi của sản phẩm như bánh cuốn Thanh Trì,
bánh đúc làng Kẻ, tương Cự Đà, cốm làng Vòng, bánh chưng bánh dầy
từ thời Văn Lang… Ca dao truyền khẩu dạy chế biến các món dân gian:
“con gà cục tác lá chanh, con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi, con chó
khóc đứng khóc ngồi, mẹ ơi đi chợ mua tôi đồng riềng”, “Khế xanh nấu
với ốc nhồi, Tuy nước nó xám, nhưng mùi nó
ngon”.
Điểm
qua văn chương cổ không thấy tả vua chúa ăn phở bò, hay tả về món
phở bò. Phở chỉ xuất hiện trong văn thơ thời Pháp thuộc, Tú Mỡ,
Thạch Lam, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan… Bò, và phở gần
như vắng hoàn toàn trong văn hóa dân gian
Việt.
Điều
này chứng tỏ bò và phở xa lạ với người Việt Nam trước thế kỷ 20.
Các sản phẩm từ sữa bò quen thuộc với người châu Âu, xa lạ với
người Việt thời đó: sữa tươi, bơ, phô-ma, sữa chua. Chăn nuôi bò
là một ngành phát triển mạnh ở Pháp. Pháp nổi tiếng có hơn 100
loại phô-ma khác nhau, hầu như đều là sản phẩm từ sữa bò. Khi
người Pháp chiếm Đông Dương, nhu cầu về sữa bò, và phô-ma bơ,
thịt bò là nhu cầu thiết yếu của họ. Cà phê sữa, uống sữa là thói
quen của người Pháp.
Người
Việt Nam chỉ uống trà. Quan niệm xưa chung của dân châu Á, ai uống
sữa động vật nào là sẽ biến thành con vật đó. Chỉ có tầng lớp nhỏ
trung lưu làm việc với Pháp mới biết khẩu vị “Tối
rượu sâm-panh, sáng sữa bò”.Trong cuốn “Địa lý về sữa, in năm 1940,
P. Veyrey đã nhận định: sữa
ở Annam chỉ phục vụ cho một số tầng lớp khá giả. Bò và sản phẩm
từ bò không quen thuộc đối với người Đông Dương. Trẻ con ở đây bú
mẹ đến 3, 5 tuổi. Dân các nước Đông Nam Á không dùng sữa, bơ. “Dân
bơ sữa” là thành ngữ mới, chỉ đám con nhà giàu sang. Việt Nam chỉ
nuôi trâu. Trâu khỏe giúp cho cày ruộng. Chỉ khi nào trâu chết, hay
già, ốm yếu mới được ăn thịt. Thời trước chỉ có món xáo trâu.
Không có món ăn nào của Việt Nam liên quan đến thịt bò được nhắc
đến trước thế kỷ 20. Chứng tỏ bò hầu như không có mặt ở Việt
Nam.
Bò
châu Á là giống bé nhỏ, có bướu và rất ít do không đem nhiều lợi
ích trong cuộc sống như trâu. Trâu to và khỏe, sức chịu đựng dẻo
dai. Người nông dân Việt trước kia nuôi trâu. Người Pháp khi đến
Đông Dương chê bò có bướu châu Á còi cọc, ốm yếu, gầy giơ
xương, túi hai bên sườn rỗng, không có thịt. Người Pháp đã quyết
định nhập bò sữa từ Normandie, và một số từ Ấn Độ, bò Thụy Sỹ, bò
Bretagne và cho lai tạo với hy vọng tạo ra một giống bò mới, to khỏe
chịu đựng được khí hậu nhiệt đới, và cho nhiều sữa,
thịt.
Bác
sĩ Yersin đã đệ thư xin chính phủ bảo hộ cho nhập bò, gà Thụy Sỹ.
Năm 1898, Pháp đã bắt đầu nhập bò vào Việt Nam. Chuyên gia nuôi bò
ở Limousin được gửi sang Đông Dương để hướng dẫn cách nuôi. Do
chặng đường vận chuyển bằng tàu thủy từ Marseille đến Đông Dương
và khí hậu thay đổi hoàn toàn khác, nhiều con đã chết hay kiệt sức
trên đường đi. Một số bò được thử thả nuôi, chết vì hổ, voi rừng.
Sau đó bò được giao cho nông dân nuôi (có lẽ từ đó người nông dân
Việt Nam mới nuôi bò). Người Pháp dạy cho nông dân bản xứ cách
nuôi bò, vắt sữa.
Sữa
và thịt bò chỉ bán trong các thành phố lớn và chỉ có người Pháp
tiêu thụ vì giá thành quá cao. 1 cân thịt bò 30 cents. Cũng vì vậy
công nghệ làm bơ, phô-ma không thể làm tại địa phương, phải nhập
từ mẫu quốc do số lượng người dùng ít. Việc nuôi bò thịt và sữa
không đem lại lợi nhuận so với khai thác cà phê, cao xu, mỏ… Chăn
nuôi bò gần như không thành công tại Đông
Dương.
Như
vậy công nghệ chăn nuôi bò lấy thịt và sữa là do người Pháp đem
vào. Điều đó khẳng định phở bò chỉ có đầu thế kỷ 20 vì chuyến bò
nhập đầu tiên là năm 1898.
Bò
rất hiếm, đương nhiên quý nên đắt tiền. Mổ bò là ngày hội lớn
của làng, phải đem ra bàn bạc ở đình làng vì vậy mới có thành ngữ
ồn ào (cãi nhau) như mổ bò là thành ngữ mới. Một vài thành ngữ
mới xuất hiện đầu thế kỷ 20: Trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết; Ngu
như bò, cùng với trò chơi đấu bò, thi cưỡi bò ở miền Tây. Thời
nay phở trở nên món ăn hấp dẫn quen thuộc nên được ví như
bồ.
Cuốn
từ điển của Alexandre de Rhodes năm 1651 không có từ phở. Trong bài
khảo luận về dân Bắc Kỳ, Tạp chí Đông Dương (15/9/1907), Georges
Dumoutier nói về những món ăn phổ biến ở Bắc Kỳ, không điểm danh
phở. Khảo sát việc nhập bò, chăn nuôi bò thời Đông Dương chứng
minh phở
chỉ xuất hiện đầu thế kỷ 20. Phở sớm được ưa thích, nên phở xuất
hiện trong văn thơ thời Pháp thuộc, và chỉ hơn chục năm sau, phở có
trong từ điển. Từ điển của Gustave Hue (Dictionnaire Annamite – Chinois –
Français) xuất bản năm 1937 định nghĩa: “Cháo phở :
pot-au-feu”.
Người
Pháp dịch món PHỞ là pot au feu (pô-tô-phơ). Pot au feu – món súp hầm
thịt bò là món ăn truyền thống của Pháp. Phở chính là sự sáng tạo
của người Việt khi giao lưu với văn hóa ẩm thực Pháp. Xét về
nguyên liệu thì nồi nước súp cổ truyền của người Pháp gần giống
nồi nước dùng nấu phở trừ rau củ. Thịt bò toàn những thứ cứng và
dai : đuôi, gân, sườn, đùi thăn, dạ dày, bạc nhạc. Tất cả hầm chung
với hành củ và quế, hoa hồi, hạt tiêu. Nước dùng được lọc 1 lần
cho trong, khi thịt gân mềm cho rau, củ (cà rốt, cần tây, khoai tây).
Phở có dùng hành tây nướng, bóc vỏ bỏ vào nước dùng cho thơm.
Hành Tây củ chỉ có khi Pháp vào Việt Nam, nên gọi là hành Tây. Anis
(hoa hồi) cũng không phải là hương vị quen thuộc của người
Việt.
Người
Pháp sống ở Đông dương với nỗi nhớ quê hương và các món ăn dân
tộc họ. Họ đã bày cho những người đầu bếp Việt Nam nấu món này.
Thấy món ăn hấp dẫn dễ ăn, người Việt đã Việt Nam hóa một cách
sáng tạo món súp bò của Pháp bằng cách dùng thêm hương liệu Việt
Nam có sẵn như gừng nướng, quế và thay thế khoai tây bằng bánh đa
tươi thái sợi. Bánh đa, bánh cuốn là bánh có từ lâu đời của
người Việt Nam. Nước dùng nấu như pot au feu nhưng không cho rau củ.
Người Pháp khi ăn súp này thì vớt thịt miếng to cho vào đĩa sâu, ai
ăn thì tự lấy cắt nhỏ ra, rưới thêm nước súp và rau khoai, ăn với
bánh mỳ.
Người
Việt không dùng dao nĩa như người Pháp, mà dùng đũa, nên thịt thái
nhỏ theo phong tục thói quen người Việt. Hơn nữa, thời đó xã hội
Việt Nam còn nghèo, miếng thịt to như thế là một thứ xa xỉ phẩm.
Nhiều chuyện kể, bố và bạn ngồi nhấm rượu với thịt, vợ con ngồi
chờ dưới bếp thập thò hy vọng còn thừa để ăn. Thái thịt chín mỏng
là tài nghệ của người đầu bếp. Thịt chín, thịt gân thái mỏng giơ
lên thấy cả ánh sáng mặt trời, nhưng không được rách vỡ, miếng
gân, ngầu trong vắt, khi rưới nước phở lên, nước dùng thấm xuyên
qua miếng thịt, ăn miếng thịt mới cảm thấy đậm đà. Thịt hầm không
nát. Gân phải mềm.
Người
Pháp ăn món súp bò thả hành và rắc rau mùi tây lên trên. Việt Nam,
phở bò nguyên gốc Hà Nội cũng chỉ rắc hành và mùi và thịt chín.
Thịt bò nạc mềm đắt, nên chỉ dùng nguyên liệu rẻ tiền nhất trong
thịt bò. Theo Clotilde Chivas-Baron, Marie-Paule Ha kể các Sơ đầu tiên
đến Đông Dương
nhận quà tặng là một con bò sữa khi mới thành lập “La Sainte Enfance”
ở Sài gòn. Lúc đó ban truyền giáo nghèo, nhà lợp lá, 20/05/1860.
Trại có chuồng nuôi gà và một con dê,…”. Bò là món quà tặng quý
hiếm lúc đó. Nên mặc dù nguyên liệu nấu phở bò là thứ rẻ tiền
nhất, phở thời đó chưa phải là món bình dân như thời nay. Giá một
bát phở từ 2 đến 5 xu, tương đương một ngày công lao động vất vả
của người công nhân làm cho Pháp.
Phở
xuất hiện đầu thế kỷ 20, do đó không có mặt trong ngày Tết cổ
truyền dân tộc.
Phở
là món ăn ảnh hưởng món súp bò của Pháp. Vậy từ phở do
chữ “Feu
/ phơ” mà
ra. Tiếng Việt đơn âm, người Việt lúc đó đại đa số không biết
tiếng Pháp, do tiếp xúc làm việc phục vụ cho người Pháp, họ nói
tiếng Tây bồi, họ thường hay rút ngắn từ tiếng Pháp, nhất là khi
nghe không rõ, họ có thói quen lấy từ đầu hay từ cuối cùng để gọi.
Thí dụ như Galon (phù hiệu quân hàm) gọi đơn giản là lon, biscuit
(bánh qui – lấy âm qui đằng sau từ
biscuit), chèque (séc), essence (xăng), affaire (phe), démarrer (đề),
alcool (cồn), beige (be), dentelle (ren, cartouche
(tút)…
Chỉ
có người Pháp thời đó làm việc quen với mấy người phục vụ mới
hiểu được tiếng Tây bồi này. Tiếng bồi này thời đó là oai vì làm
việc cho Tây và nói Tây hiểu, dần dần lan ra dân chúng, trở nên
ngôn ngữ mới. Hầu như là những từ không có ở Việt Nam, như xăng,
cồn, tút, đề…. và các món ăn của Pháp như bơ, phô-ma, biscuit…
Riêng sữa có từ ở Việt Nam, nên không vay mượn từ của Pháp kiểu
đó. Sự biến đổi những từ đa âm thành từ đơn âm là cách Việt hóa
các từ Pháp. Người bồi bếp đã đọc chữ cuối FEU thành PHỞ. Từ đó
có từ phở.
Phở
là món ăn của Bắc Kỳ (theo từ điển của Pháp sau này họ dịch là
soupe tonkinoise – súp Bắc Kỳ). Điều này khẳng định phở xuất hiện ở
miền Bắc.
Người
Tàu không có món phở, không có chữ phở. Ở nước ngoài, quán ăn
nào của người Tàu có món phở, họ có ghi bằng tiếng Việt: phở bò
Việt Nam (Vietnamese Nalle phở noodle soup with sliced rare beef and well done
beef brisket).
Trong
khi người Tàu thừa nhận phở là đặc sản của Việt Nam, thì một vài
người Việt lại loay hoay chứng minh chữ phở là của gốc tiếng Tàu,
và món phở từ món ngưu lục phấn của Tàu (mì trâu). Món phở xuất
phát từ món súp bò của Pháp. Phở là sự kết hợp thông minh sáng
tạo từ món súp bò Pháp với nguyên liệu cổ truyền của Việt Nam. Từ
điển do người Pháp soạn cũng ghi phở: món súp Bắc Kỳ. Spagetti của
Ý là do Marco Polo mang mỳ từ Tàu về. Sự sáng tạo thông minh của
người đầu bếp Ý đã biến món mỳ Tàu thành món spagetti nổi tiếng
thế giới. Sushi Nhật bản là từ cơm nắm – món
ăn dân dã của nhiều nước châu Á. Không ai nói Spagetti, Sushi của
Tầu… Trong khi đó thật đáng buồn, cuốn từ điển Việt-Pháp do Lê Khả
Kế và Nguyễn Lân biên soạn, tái bản lần thứ 4, bên trong đề có
chỉnh sửa, do nxb Khoa học Xã hội in năm 1997, dịch Phở là soupe
chinoise (súp Tàu).
Những lưu ý khi dọn dẹp bàn thờ
Những lưu ý khi dọn dẹp bàn thờ
-
-
Một
cuốn từ điển cũng để chứng minh văn hóa dân tộc. Phở là một đặc
sản của Việt Nam, vậy mà dịch sang tiếng Pháp là súp Tàu. Nếu
người Tàu lấy đó làm bằng chứng phở là đặc sản của họ thì lúc
đó ban biên tập nxb Khoa học Xã hội cùng hai tác giả nói gì để tranh
cãi. Từ điển là tài liệu sống. Một sự sơ xuất vô tình có khi mất
nước. “Bút sa gà chết”. Sự phân chia biên giới Tàu-Việt đã là bài
học đau đớn cho sự yếu về quân sự và thiếu tư liệu văn hóa cổ.
Một thời kỳ ngớ ngẩn theo Tàu, đã đốt những sách, tư liệu “có hơi
chữ Tây” trong đó. Giờ chúng ta lại phải cử người qua Pháp để
tìm lại.
Ẩm thực cũng là văn hóa của một dân tộc. Khi tranh cãi chủquyền về
văn hóa, về đất đai, người ta luôn đem sách vở, văn chương làm
bằng chứng. Để bảo vệ giữ gìn văn hóa cũng như giữ gìn bảo vệ
đất nước, những người cầm bút phải có trách nhiệm rất lớn và
việc đầu tư cho văn hóa là cần thiết và quan trọng. Văn hóa là một
lĩnh vực rộng lớn bao hàm cả mọi vấn đề xã hội. Muốn giữ gìn văn
hóa trước hết phải quan tâm đến người làm văn hóa và có những
chính sách tài trợ thích đáng để họ bỏ công bỏ sức đi sưu tầm tài
liệu.
-
-
Những
lưu ý khi dọn dẹp bàn thờ
-
-
Phở
chính là sự sáng tạo tuyệt vời của những đầu bếp Việt Nam thời đó.
Họ đã thả hồn Việt vào trong phở. Giao lưu văn hóa có nhiều cái
lợi. Nếu tài giỏi thông minh biết kết hợp cái cổ truyền và cái mới
sẽ tạo ra những tuyệt tác mang phong cách và hồn dân tộc. Bắt chước
sáng tạo ra cái mới đòi hỏi tài nghệ và thông minh của người sáng
tạo. Phở là một vinh danh trong văn hóa ẩm thực Việt trong quá trình
giao lưu với văn hóa ẩm thực phương Tây.
Hestia sưu
tầm
Những lưu ý khi dọn dẹp bàn thờ
Phở chính là sự sáng tạo tuyệt vời của những đầu bếp Việt Nam thời đó. Họ đã thả hồn Việt vào trong phở. Giao lưu văn hóa có nhiều cái lợi. Nếu tài giỏi thông minh biết kết hợp cái cổ truyền và cái mới sẽ tạo ra những tuyệt tác mang phong cách và hồn dân tộc. Bắt chước sáng tạo ra cái mới đòi hỏi tài nghệ và thông minh của người sáng tạo. Phở là một vinh danh trong văn hóa ẩm thực Việt trong quá trình giao lưu với văn hóa ẩm thực phương Tây.
Hestia sưu
tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét