Hoàng Cầm -Một hồn thơ Kinh Bắc
Nhà thơ Hoàng Cầm tên khai sinh là Bùi Tằng Việt sinh
ngày 22 tháng 2 năm 1922 tại xã Phúc Tầng, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Quê
gốc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
Nhà
thơ Hoàng Cầm.
Học
xong tiểu học ở Bắc Giang và Bắc Ninh ông ra Hà Nội học Trung học. Năm 1940 đỗ
Tú tài toàn phần. Ông bước vào nghề văn, viết báo, làm gia sư, dịch sách. Năm
1944 ông về quê Song Hồ, Thuận Thành tham gia thanh niên cứu quốc của mặt trận
Việt Minh. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945 ông viết kịch và thành lập Ban kịch
Ðông Phương. Ông gia nhập Vệ quốc quân và thành lập đội Văn nghệ tuyên truyền
thuộc chiến khu Việt Bắc. Ðầu năm 1955 Hoàng Cầm được bầu vào Ban chấp hành khóa
I Hội Nhà văn Việt Nam và được cử vào Ban Giám đốc Nhà xuất bản Hội Nhà
văn.
Hoàng
Cầm có nhiều tài như ngâm thơ, làm diễn viên, hội họa, viết kịch, viết văn, dịch
sách nhưng sâu đậm nhất và thành công nhất trong cuộc đời là sáng tác thơ. Ông
là nhà thơ trữ tình nổi tiếng đặc sắc. Một hồn thơ tiêu biểu của xứ Kinh
Bắc.
Trong
thơ và trong cuộc đời Hoàng Cầm ấn tượng, tình cảm sâu đậm nhất là quê hương.
Ông nhắc đến quê hương là yêu mến và trân trọng. Nói đến quê hương là hình ảnh
người Mẹ hiển hiện:
Cúi
lạy mẹ con trở về Kinh Bắc
Chiều
xưa giẻ quạt voi lồng
(Ðêm
thổ)
Quê
hương trong thơ Hoàng Cầm lung linh huyền thoại và đậm chất sử thi. Những sông,
núi, ao hồ, đình, chùa làng xóm được khơi gợi:
-
Sông Cầu xuôi bến Hát
Rập
rềnh Mộ Dạ chiếu tân hôn
(Gió
lông ngỗng)
-
Áo Hai Ba dăng mắc
Rừng
liên miên chi chít mộ Hùng Vương
(Ðèn
nhang 1)
Về
với bài thơ “Bên kia sông Ðuống” sinh thời ông tâm sự “Tôi đang ở trong trạng
thái bồn chồn, thao thức, tâm tư rối bời sau khi nghe báo cáo về quê hương mình
bị giặc Pháp xâm lược kéo đến tàn phá, giết chóc, tôi chưa định viết gì. Lúc quá
nửa đêm vắng lặng, bỗng văng vẳng bên tai ba câu:
Em
ơi buồn làm chi
Anh
đưa em về sông Ðuống
Ngày
xưa… cát trắng phẳng lì
Tôi
bèn chụp lấy, ghi ngay và cứ thế cảm xúc trào ra một mạch dài, viết rất nhanh sợ
không theo kịp những thanh âm, làn điệu, đang cuồn cuộn dâng lên trong lòng
mình. Cho đến gần sáng thì xong bài thơ.
Về
trường hợp ra đời bài thơ “Lá Diêu bông” ông viết: “Nhà tôi ở vào một phố nhỏ,
lại lùi tít ở phía bên trong nên tiếng xe cộ thưa thớt ngoài đường tôi cũng
không nghe rõ. Im lặng. Chợt bên tai vẳng lại một giọng nữ rất nhỏ nhẹ mà rành
mạch, đọc chậm rãi, có tiết điệu, nghe như từ thuở nào xa xưa vẳng đến, có lẽ từ
tiền kiếp vọng về:
Váy
Ðình Bảng buông chùng cửa võng
Tôi
xoay người trong chăn về phía bên trái và ghi ngay lên giấy. Giọng nữ vẫn đọc,
không vội vàng mà cũng không quá chậm và tôi ghi lia lịa trong bóng tối
mờ…”.
Thường
viết vào lúc đêm khuya, trong tâm thức như người “nhập đồng” nên thơ Hoàng Cầm
huyền ảo, mông lung. Cảnh sắc nên thơ nhưng thường là đã qua, đã tàn lụi chỉ còn
trong nỗi nhớ tiếc:
-
Tràu cau chẳng kịp cốm hồng
Xác
pháo đã vùi trong ngõ mưa lầy lội.
(Tôi
người làng Quan họ)
-
Mẹ kể chuyện ngày xưa xa lắm
Tháng
tám ao hồ mát lạnh
(Quan
họ mở đầu)
Không
gian, thời gian trong thơ Hoàng Cầm rất rộng, đa chiều, nhiều tầng, nhiều lớp.
Ông viết về thiên nhiên, về huyền sử, về tôn giáo, về phong tục tập quán nhưng
bao trùm và cốt lõi là con người:
Váy
Ðình Bảng buông chùng cửa võng
Chất
sống, sức sống con người luôn trỗi dậy vượt qua lớp vỏ dù là tôn giáo, nét đẹp
của người con gái dậy thì hiển hiện ở nơi muốn xa trần thế:
Chùa
Phật Tích duỗi trong màn lụa bạch
Tượng
Quan âm má ửng bồ quân
Vẻ
đẹp kiêu sa, thân thế ngà ngọc được vẽ lên sinh động và trong một tâm thế thảng
thốt như mê như tỉnh:
Tuột
hàng khuy lơi yếm tóc buông mành
Ðùi
chảy búp dài thon nhún vội
Bàng
hoàng tia chớp liệng nghiêng xanh
(Thi
đánh đu)
Những lưu ý khi dọn dẹp bàn thờ
Những lưu ý khi dọn dẹp bàn thờ
Ước muốn được giải thoát khỏi mọi thứ ràng buộc, dù là lụa là châu báu luôn là một tâm niệm của Hoàng Cầm
Ðến
khi xé lụa bừng da thịt
Ngửa
mặt phù du khép gió xanh
(Dáng
thơ)
Trong
những năm tháng cô đơn, buồn tẻ sống xa quê hương Hoàng Cầm lại nhớ về quê hương
và sáng tác về quê hương. Những tập thơ “Tiếng hát Quan họ-1956”, “Mưa Thuận
Thành-1991”, “Lá Diêu bông-1993”, “Về Kinh Bắc-1994” là tấm lòng và cũng là nỗi
niềm của ông với quê hương. Trong thơ ông thực và mộng, yêu thương và đau xót,
hiện tại và quá khứ được cất lên với nhiều tâm trạng của người con muốn nói hết
những ẩn ức của lòng mình.
Trần Anh Trang
Ước muốn được giải thoát khỏi mọi thứ ràng buộc, dù là lụa là châu báu luôn là một tâm niệm của Hoàng Cầm
Hoàng Cầm -Một hồn thơ Kinh Bắc
Nhà thơ Hoàng Cầm tên khai sinh là Bùi Tằng Việt sinh
ngày 22 tháng 2 năm 1922 tại xã Phúc Tầng, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Quê
gốc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
Nhà
thơ Hoàng Cầm.
Học
xong tiểu học ở Bắc Giang và Bắc Ninh ông ra Hà Nội học Trung học. Năm 1940 đỗ
Tú tài toàn phần. Ông bước vào nghề văn, viết báo, làm gia sư, dịch sách. Năm
1944 ông về quê Song Hồ, Thuận Thành tham gia thanh niên cứu quốc của mặt trận
Việt Minh. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945 ông viết kịch và thành lập Ban kịch
Ðông Phương. Ông gia nhập Vệ quốc quân và thành lập đội Văn nghệ tuyên truyền
thuộc chiến khu Việt Bắc. Ðầu năm 1955 Hoàng Cầm được bầu vào Ban chấp hành khóa
I Hội Nhà văn Việt Nam và được cử vào Ban Giám đốc Nhà xuất bản Hội Nhà
văn.
Hoàng
Cầm có nhiều tài như ngâm thơ, làm diễn viên, hội họa, viết kịch, viết văn, dịch
sách nhưng sâu đậm nhất và thành công nhất trong cuộc đời là sáng tác thơ. Ông
là nhà thơ trữ tình nổi tiếng đặc sắc. Một hồn thơ tiêu biểu của xứ Kinh
Bắc.
Trong
thơ và trong cuộc đời Hoàng Cầm ấn tượng, tình cảm sâu đậm nhất là quê hương.
Ông nhắc đến quê hương là yêu mến và trân trọng. Nói đến quê hương là hình ảnh
người Mẹ hiển hiện:
Cúi
lạy mẹ con trở về Kinh Bắc
Chiều
xưa giẻ quạt voi lồng
(Ðêm
thổ)
Quê
hương trong thơ Hoàng Cầm lung linh huyền thoại và đậm chất sử thi. Những sông,
núi, ao hồ, đình, chùa làng xóm được khơi gợi:
-
Sông Cầu xuôi bến Hát
Rập
rềnh Mộ Dạ chiếu tân hôn
(Gió
lông ngỗng)
-
Áo Hai Ba dăng mắc
Rừng
liên miên chi chít mộ Hùng Vương
(Ðèn
nhang 1)
Về
với bài thơ “Bên kia sông Ðuống” sinh thời ông tâm sự “Tôi đang ở trong trạng
thái bồn chồn, thao thức, tâm tư rối bời sau khi nghe báo cáo về quê hương mình
bị giặc Pháp xâm lược kéo đến tàn phá, giết chóc, tôi chưa định viết gì. Lúc quá
nửa đêm vắng lặng, bỗng văng vẳng bên tai ba câu:
Em
ơi buồn làm chi
Anh
đưa em về sông Ðuống
Ngày
xưa… cát trắng phẳng lì
Tôi
bèn chụp lấy, ghi ngay và cứ thế cảm xúc trào ra một mạch dài, viết rất nhanh sợ
không theo kịp những thanh âm, làn điệu, đang cuồn cuộn dâng lên trong lòng
mình. Cho đến gần sáng thì xong bài thơ.
Về
trường hợp ra đời bài thơ “Lá Diêu bông” ông viết: “Nhà tôi ở vào một phố nhỏ,
lại lùi tít ở phía bên trong nên tiếng xe cộ thưa thớt ngoài đường tôi cũng
không nghe rõ. Im lặng. Chợt bên tai vẳng lại một giọng nữ rất nhỏ nhẹ mà rành
mạch, đọc chậm rãi, có tiết điệu, nghe như từ thuở nào xa xưa vẳng đến, có lẽ từ
tiền kiếp vọng về:
Váy
Ðình Bảng buông chùng cửa võng
Tôi
xoay người trong chăn về phía bên trái và ghi ngay lên giấy. Giọng nữ vẫn đọc,
không vội vàng mà cũng không quá chậm và tôi ghi lia lịa trong bóng tối
mờ…”.
Thường
viết vào lúc đêm khuya, trong tâm thức như người “nhập đồng” nên thơ Hoàng Cầm
huyền ảo, mông lung. Cảnh sắc nên thơ nhưng thường là đã qua, đã tàn lụi chỉ còn
trong nỗi nhớ tiếc:
-
Tràu cau chẳng kịp cốm hồng
Xác
pháo đã vùi trong ngõ mưa lầy lội.
(Tôi
người làng Quan họ)
-
Mẹ kể chuyện ngày xưa xa lắm
Tháng
tám ao hồ mát lạnh
(Quan
họ mở đầu)
Không
gian, thời gian trong thơ Hoàng Cầm rất rộng, đa chiều, nhiều tầng, nhiều lớp.
Ông viết về thiên nhiên, về huyền sử, về tôn giáo, về phong tục tập quán nhưng
bao trùm và cốt lõi là con người:
Váy
Ðình Bảng buông chùng cửa võng
Chất
sống, sức sống con người luôn trỗi dậy vượt qua lớp vỏ dù là tôn giáo, nét đẹp
của người con gái dậy thì hiển hiện ở nơi muốn xa trần thế:
Chùa
Phật Tích duỗi trong màn lụa bạch
Tượng
Quan âm má ửng bồ quân
Vẻ
đẹp kiêu sa, thân thế ngà ngọc được vẽ lên sinh động và trong một tâm thế thảng
thốt như mê như tỉnh:
Tuột
hàng khuy lơi yếm tóc buông mành
Ðùi
chảy búp dài thon nhún vội
Bàng
hoàng tia chớp liệng nghiêng xanh
(Thi
đánh đu)
Những lưu ý khi dọn dẹp bàn thờ
Những lưu ý khi dọn dẹp bàn thờ
Ước muốn được giải thoát khỏi mọi thứ ràng buộc, dù là lụa là châu báu luôn là một tâm niệm của Hoàng Cầm
Ðến
khi xé lụa bừng da thịt
Ngửa
mặt phù du khép gió xanh
(Dáng
thơ)
Trong
những năm tháng cô đơn, buồn tẻ sống xa quê hương Hoàng Cầm lại nhớ về quê hương
và sáng tác về quê hương. Những tập thơ “Tiếng hát Quan họ-1956”, “Mưa Thuận
Thành-1991”, “Lá Diêu bông-1993”, “Về Kinh Bắc-1994” là tấm lòng và cũng là nỗi
niềm của ông với quê hương. Trong thơ ông thực và mộng, yêu thương và đau xót,
hiện tại và quá khứ được cất lên với nhiều tâm trạng của người con muốn nói hết
những ẩn ức của lòng mình.
Trần Anh Trang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét