Tháng Tư trảy hội chùa Dâu
“Dù ai đi đâu về đâu/Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì
về/Dù ai buôn bán trăm nghề/ Tháng Tư ngày Tám thì về hội Dâu”. Hàng năm, ngày
8-4 âm lịch được xem là ngày sinh của Phật tổ Thích Ca Mâu Ni (Ấn Độ) cũng là
ngày sinh của Phật Tứ Pháp (Việt Nam), nhân dân 3 xã Thanh Khương, Hà Mãn, Trí
Quả (Thuận Thành) lại tưng bừng mở hội chùa Dâu.
Chùa Dâu trong ngày
hội.
Di
tích Quốc gia đặc biệt chùa Dâu
Nhiều
tài liệu xác nhận chùa Dâu (Thanh Khương, Thuận Thành) được xây dựng từ thế kỷ
II. Đến đầu thế kỷ XIV, chùa Dâu được xây dựng quy mô hàng trăm gian với nhiều
công trình chùa, tháp, cầu qua sông Dâu mà dân gian vẫn truyền là: “chùa trăm
gian, tháp chín tầng, cầu chín nhịp” do Trạng nguyên thời Trần Mạc Đĩnh Chi đứng
ra hưng công mở rộng. Đến thời Lê-Nguyễn, chùa Dâu được tu sửa nhiều lần, kiến
trúc còn lại như ngày nay cơ bản là của thời Lê-Nguyễn (thuộc thế kỷ XVIII-XIX).
Tuy nhiên, vẫn còn những dấu tích kiến trúc thuộc thời Trần như bệ đa hoa sen
đặt sau tượng Pháp Vân, phần chạm khắc ở vì nóc tòa thượng
điện.
Năm
2014, chùa Dâu được Nhà nước xếp hạng là di tích Quốc gia đặc biệt. Kiến trúc
chùa hiện nay theo kiểu “nội công ngoại quốc”, giữa là ba tòa: Tiền đường, Thiêu
hương, Thượng điện và hai bên là hai dãy hành lang, phía trước dãy nhà ngang 9
gian, giữa sân là tháp Hòa Phong cao tam tầng. Ngoài ra còn nhiều công trình
khác như nhà Tổ, nhà Tăng... Tất cả công trình đều được xây gạch, lợp ngói,
khung gỗ lim, kết cấu đơn giản.
Trung
tâm thờ tự ở chùa Dâu đặt trong tòa Thượng điện với tượng Pháp Vân và tượng
Thạch Quang đặt ở chính giữa. Trong chùa có nhiều di tích và tượng quý như:
Tượng kim đồng ngọc nữ, tượng La Hán, nhiều hiện vật có giá trị như tay ngai, bệ
tòa sen, chuông khánh, bia đá, sắc phong của các triều vua phong kiến Việt Nam,
bản khắc gỗ “Cổ châu Pháp Vân Phật bản hạnh”…
Nằm
trong quần thể khu di tích Luy Lâu với những dấu tích vật chất, khảo cổ học vô
cùng phong phú, chùa Dâu gắn với huyền tích Phật mẫu Man Nương và Tứ Pháp (Pháp
Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện) là biểu hiện sinh động, kết hợp nhuần nhuyễn
giữa tín ngưỡng dân gian của người Việt với Phật giáo khi mới du nhập vào nước
ta. Qua suốt tiến trình lịch sử Phật giáo Việt Nam, chùa Dâu và hệ thống các
chùa thờ Tứ Pháp luôn giữ vai trò là chứng tích tổ đình Phật giáo Việt Nam và
còn là thiền viện lớn - nơi nghiên cứu phật pháp, đào tạo tăng sĩ, lưu giữ các
bản kinh phật và là quê hương của nhiều bậc cao tăng nổi
tiếng.
Độc
đáo lễ hội rước Phật Tứ Pháp
Lễ
hội chùa Dâu được coi là lễ hội cổ nhất còn tồn tại đến ngày nay với ý nghĩa cầu
cho mưa thuận gió hòa - một ước vọng ngàn đời của cư dân nông nghiệp. Sử sách
ghi chép, các vua chúa thường về đây dự hội, lễ Phật, cầu đảo, thậm chí tượng
Pháp Vân nhiều lần được rước về kinh đô Thăng Long để cầu
đảo.
Người
dân vùng Dâu kể rằng, lễ rước trong hội chùa Dâu rất đặc biệt, mang nhiều nét
đẹp văn hóa tiêu biểu, độc đáo. Ngày chính hội, các làng thuộc Tổng Dâu xưa, nay
thuộc 3 xã Thanh Khương, Hà Mãn, Trí Quả tổ chức rước các tượng Pháp Vân (bà
Dâu), Pháp Vũ (bà Đậu), Pháp Lôi (bà Tướng), Pháp Điện (bà Dàn) từ các chùa làng
về “công đồng” hội ngộ tại chùa Dâu. Đám rước gồm ngựa thờ, cờ quạt, tàn lọng,
trống chiêng… Điều đặc sắc, ấn tượng nhất là khi tới chùa Dâu thì diễn ra trò
“mẹ đuổi con”. Kiệu bà Dâu, bà Đậu, bà Tướng, bà Dàn, được rước chạy ba vòng rồi
trở về chỗ cũ. Kiệu Man Nương tức “Kiệu mẹ” được rước vào trong chùa Dâu. Tiếp
đến là trò cướp nước với sự tham gia của hai kiệu Pháp Vũ và Pháp Lôi. Khi có
hiệu lệnh, kiệu hai bà được rước chạy ra Tam quan, kiệu nào đến trước thì lấy
được nước, thắng cuộc. Thường kiệu Pháp Vũ đến trước và người dân quan niệm năm
đó sẽ được mùa. Ngược lại, nếu kiệu Pháp Lôi đến trước thì năm đó ruộng đồng lắm
sâu nhiều đỉa, làm ăn vất vả, trắc trở. Bởi vậy nên dân gian còn truyền câu ca
“Ngày Tám tháng Tư không mưa/Bỏ cả
cầy bừa mà vứt lúa đi/Ngày Tám tháng Tư có mưa/Mẹ con đi sớm về trưa ngại
gì”.
Cùng
với trò cướp nước còn có múa gậy “Bạc trượng” và “Hồng côn” để dẹp hội. Theo dân
gian, múa gậy không chỉ để dẹp đám mà còn tái diễn sự tích cây gậy thần kỳ.
Giếng cổ trong chùa là dấu vết Man Nương cắm gậy xuống đất làm ra nước cứu sống
sinh linh. Ngoài ra, còn nghi thức rước Tứ Pháp đi “tuần nhiễu” ban đêm một vòng
khép kín từ Đông sang Tây để mô tả chu kỳ quả đất xoay tròn, tạo ra năm tháng,
bốn mùa. Trước khi giã hội còn rước kiệu Thạch Quang và Tứ pháp về chùa Mãn Xá
để bái tổ sau đó diễn trò vái chị, vái em. Ý nghĩa của nghi lễ trong đám rước
không chỉ là tình mẹ-con, chị-em biểu hiện đức độ truyền thống mà còn được hiểu
là sự giao hoà thiên nhiên, thời tiết.
Khoảng
hơn 20 năm trở lại đây, hội chùa Dâu không tổ chức lễ rước quy mô như xưa nhưng
nhân dân địa phương vẫn duy trì mở hội theo phong tục truyền thống với phần lễ
trang nghiêm, phần hội sôi nổi, phong phú các hoạt động biểu diễn văn nghệ, thi
đấu thể thao như: Thi tổ tôm điếm, hát Quan họ trên thuyền rồng, múa rối nước,
hát văn, thi đấu cờ tướng, thả chim bồ câu bay… Năm nay, với chủ trương tổ chức
lễ hội trang nghiêm, tiết kiệm, không phô trương theo đúng tinh thần xây dựng
nếp sống văn minh, huyện Thuận Thành đã chỉ đạo các ngành, đơn vị, địa phương
chú trọng công tác tuyên truyền về ý nghĩa, giá trị di tích và lễ hội, đồng thời
bảo đảm các phương án giữ gìn an ninh trật tự, phân luồng giao thông; chú ý công
tác y tế, vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường không gian lễ hội… nhằm
tạo điều kiện thuận lợi, an toàn cho các tín đồ tăng ni, phật tử, du khách đến
hành lễ, dâng hương và trảy hội chùa Dâu năm 2016.
Bài, ảnh: V.Thanh
Tháng Tư trảy hội chùa Dâu
“Dù ai đi đâu về đâu/Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì
về/Dù ai buôn bán trăm nghề/ Tháng Tư ngày Tám thì về hội Dâu”. Hàng năm, ngày
8-4 âm lịch được xem là ngày sinh của Phật tổ Thích Ca Mâu Ni (Ấn Độ) cũng là
ngày sinh của Phật Tứ Pháp (Việt Nam), nhân dân 3 xã Thanh Khương, Hà Mãn, Trí
Quả (Thuận Thành) lại tưng bừng mở hội chùa Dâu.
Chùa Dâu trong ngày
hội.
Di
tích Quốc gia đặc biệt chùa Dâu
Nhiều
tài liệu xác nhận chùa Dâu (Thanh Khương, Thuận Thành) được xây dựng từ thế kỷ
II. Đến đầu thế kỷ XIV, chùa Dâu được xây dựng quy mô hàng trăm gian với nhiều
công trình chùa, tháp, cầu qua sông Dâu mà dân gian vẫn truyền là: “chùa trăm
gian, tháp chín tầng, cầu chín nhịp” do Trạng nguyên thời Trần Mạc Đĩnh Chi đứng
ra hưng công mở rộng. Đến thời Lê-Nguyễn, chùa Dâu được tu sửa nhiều lần, kiến
trúc còn lại như ngày nay cơ bản là của thời Lê-Nguyễn (thuộc thế kỷ XVIII-XIX).
Tuy nhiên, vẫn còn những dấu tích kiến trúc thuộc thời Trần như bệ đa hoa sen
đặt sau tượng Pháp Vân, phần chạm khắc ở vì nóc tòa thượng
điện.
Năm
2014, chùa Dâu được Nhà nước xếp hạng là di tích Quốc gia đặc biệt. Kiến trúc
chùa hiện nay theo kiểu “nội công ngoại quốc”, giữa là ba tòa: Tiền đường, Thiêu
hương, Thượng điện và hai bên là hai dãy hành lang, phía trước dãy nhà ngang 9
gian, giữa sân là tháp Hòa Phong cao tam tầng. Ngoài ra còn nhiều công trình
khác như nhà Tổ, nhà Tăng... Tất cả công trình đều được xây gạch, lợp ngói,
khung gỗ lim, kết cấu đơn giản.
Trung
tâm thờ tự ở chùa Dâu đặt trong tòa Thượng điện với tượng Pháp Vân và tượng
Thạch Quang đặt ở chính giữa. Trong chùa có nhiều di tích và tượng quý như:
Tượng kim đồng ngọc nữ, tượng La Hán, nhiều hiện vật có giá trị như tay ngai, bệ
tòa sen, chuông khánh, bia đá, sắc phong của các triều vua phong kiến Việt Nam,
bản khắc gỗ “Cổ châu Pháp Vân Phật bản hạnh”…
Nằm
trong quần thể khu di tích Luy Lâu với những dấu tích vật chất, khảo cổ học vô
cùng phong phú, chùa Dâu gắn với huyền tích Phật mẫu Man Nương và Tứ Pháp (Pháp
Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện) là biểu hiện sinh động, kết hợp nhuần nhuyễn
giữa tín ngưỡng dân gian của người Việt với Phật giáo khi mới du nhập vào nước
ta. Qua suốt tiến trình lịch sử Phật giáo Việt Nam, chùa Dâu và hệ thống các
chùa thờ Tứ Pháp luôn giữ vai trò là chứng tích tổ đình Phật giáo Việt Nam và
còn là thiền viện lớn - nơi nghiên cứu phật pháp, đào tạo tăng sĩ, lưu giữ các
bản kinh phật và là quê hương của nhiều bậc cao tăng nổi
tiếng.
Độc
đáo lễ hội rước Phật Tứ Pháp
Lễ
hội chùa Dâu được coi là lễ hội cổ nhất còn tồn tại đến ngày nay với ý nghĩa cầu
cho mưa thuận gió hòa - một ước vọng ngàn đời của cư dân nông nghiệp. Sử sách
ghi chép, các vua chúa thường về đây dự hội, lễ Phật, cầu đảo, thậm chí tượng
Pháp Vân nhiều lần được rước về kinh đô Thăng Long để cầu
đảo.
Người
dân vùng Dâu kể rằng, lễ rước trong hội chùa Dâu rất đặc biệt, mang nhiều nét
đẹp văn hóa tiêu biểu, độc đáo. Ngày chính hội, các làng thuộc Tổng Dâu xưa, nay
thuộc 3 xã Thanh Khương, Hà Mãn, Trí Quả tổ chức rước các tượng Pháp Vân (bà
Dâu), Pháp Vũ (bà Đậu), Pháp Lôi (bà Tướng), Pháp Điện (bà Dàn) từ các chùa làng
về “công đồng” hội ngộ tại chùa Dâu. Đám rước gồm ngựa thờ, cờ quạt, tàn lọng,
trống chiêng… Điều đặc sắc, ấn tượng nhất là khi tới chùa Dâu thì diễn ra trò
“mẹ đuổi con”. Kiệu bà Dâu, bà Đậu, bà Tướng, bà Dàn, được rước chạy ba vòng rồi
trở về chỗ cũ. Kiệu Man Nương tức “Kiệu mẹ” được rước vào trong chùa Dâu. Tiếp
đến là trò cướp nước với sự tham gia của hai kiệu Pháp Vũ và Pháp Lôi. Khi có
hiệu lệnh, kiệu hai bà được rước chạy ra Tam quan, kiệu nào đến trước thì lấy
được nước, thắng cuộc. Thường kiệu Pháp Vũ đến trước và người dân quan niệm năm
đó sẽ được mùa. Ngược lại, nếu kiệu Pháp Lôi đến trước thì năm đó ruộng đồng lắm
sâu nhiều đỉa, làm ăn vất vả, trắc trở. Bởi vậy nên dân gian còn truyền câu ca
“Ngày Tám tháng Tư không mưa/Bỏ cả
cầy bừa mà vứt lúa đi/Ngày Tám tháng Tư có mưa/Mẹ con đi sớm về trưa ngại
gì”.
Cùng
với trò cướp nước còn có múa gậy “Bạc trượng” và “Hồng côn” để dẹp hội. Theo dân
gian, múa gậy không chỉ để dẹp đám mà còn tái diễn sự tích cây gậy thần kỳ.
Giếng cổ trong chùa là dấu vết Man Nương cắm gậy xuống đất làm ra nước cứu sống
sinh linh. Ngoài ra, còn nghi thức rước Tứ Pháp đi “tuần nhiễu” ban đêm một vòng
khép kín từ Đông sang Tây để mô tả chu kỳ quả đất xoay tròn, tạo ra năm tháng,
bốn mùa. Trước khi giã hội còn rước kiệu Thạch Quang và Tứ pháp về chùa Mãn Xá
để bái tổ sau đó diễn trò vái chị, vái em. Ý nghĩa của nghi lễ trong đám rước
không chỉ là tình mẹ-con, chị-em biểu hiện đức độ truyền thống mà còn được hiểu
là sự giao hoà thiên nhiên, thời tiết.
Khoảng
hơn 20 năm trở lại đây, hội chùa Dâu không tổ chức lễ rước quy mô như xưa nhưng
nhân dân địa phương vẫn duy trì mở hội theo phong tục truyền thống với phần lễ
trang nghiêm, phần hội sôi nổi, phong phú các hoạt động biểu diễn văn nghệ, thi
đấu thể thao như: Thi tổ tôm điếm, hát Quan họ trên thuyền rồng, múa rối nước,
hát văn, thi đấu cờ tướng, thả chim bồ câu bay… Năm nay, với chủ trương tổ chức
lễ hội trang nghiêm, tiết kiệm, không phô trương theo đúng tinh thần xây dựng
nếp sống văn minh, huyện Thuận Thành đã chỉ đạo các ngành, đơn vị, địa phương
chú trọng công tác tuyên truyền về ý nghĩa, giá trị di tích và lễ hội, đồng thời
bảo đảm các phương án giữ gìn an ninh trật tự, phân luồng giao thông; chú ý công
tác y tế, vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường không gian lễ hội… nhằm
tạo điều kiện thuận lợi, an toàn cho các tín đồ tăng ni, phật tử, du khách đến
hành lễ, dâng hương và trảy hội chùa Dâu năm 2016.
Bài, ảnh: V.Thanh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét