Những tự sự của nhà thơ Hữu Loan, cha đẻ "Màu tím hoa sim nổi tiếng" đã tạo ra niềm xúc động lớn trong với cộng đồng mạng. Tự sự đớn đau này được chia sẻ rất nhiều trên Facebook tạo nên nhiều thổn thức. "Rất cảm động, vì sự chân thành, vì tình người, tính người. Và có thể hình dung cả bối cảnh một thời cuộc tao loạn. Mỗi số phận cá nhân đều chứa trong lòng nó những bi kịch của lịch sử" - (Kim Dung)
Những người yêu thơ tình, không ai không biết đến bài thơ
"Màu tím hoa sim đầy xúc động". Đằng sau đó là một câu chuyện còn sâu sắc hơn,
đau đáu hơn của tác giả Hữu Loan.
Nhà
thơ Hữu Loan
Nàng
có ba người anh
Đi bộ
đội Những em nàng còn chưa biết nói Khi tóc nàng xanh xanh. Tôi là người chiến
binh Xa gia đình Yêu nàng như tình yêu em gái Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo
cưới, Tôi mặc đồ quân nhân Đôi giày đinh bết bùn đất hành quân, Nàng cười xinh
xinh Bên anh chồng độc đáo. Tôi ở đơn vị về Cưới nhau xong là
đi!
Từ
chiến khu xa Nhớ về ái ngại Lấy chồng đời chiến chinh Mấy người đi trở lại Lỡ
khi mình không về Thì thương người vợ chờ Bé bỏng chiều quê ... Nhưng không chết
người trai khói lửa Mà chết người gái nhỏ hậu phương Tôi về không gặp nàng Má
tôi ngồi bên mộ con Đầy bóng tối Chiếc bình hoa ngày cưới Thành bình hương Tàn
lạnh vây quanh ... Tóc nàng xanh xanh Ngắn chưa đầy búi Em ơi! Giây phút cuối
Không được nghe nhau nói Không được trông thấy nhau một lần. Ngày xưa nàng yêu
hoa sim tím áo nàng màu tím hoa sim Ngày xưa một mình đèn khuya bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo ngày xưa... Một chiều rừng mưa Ba người anh Trên
chiến trường Đông Bắc, Biết tin em gái mất Trước tin em lấy chồng. Gió sớm thu
về Rờn rợn nước sông Đứa em nhỏ lớn lên Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị Khi gió thu về Cỏ
vàng chân mộ chí. Chiều hành quân Qua những đồi sim .. Những đồi hoa sim ...,
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết Màu tím hoa sim Tím cả chiều hoang
biền biệt Nhìn áo rách vai Tôi hát trong màu hoa. Áo tôi sứt chỉ đường tà, Vợ
tôi chết sớm mẹ già chưa khâu
Hữu
Loan
Xin
trích đăng những dòng tự thuật của chính nhà thơ Hữu Loan:
"Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có
cơ may cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa, chỉ được cha dạy cho dăm
chữ bữa có bữa không ở nhà. Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh
hơn người. Lên trung học, theo ban thành chung tôi cũng học tại Thanh Hóa, không
có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học.
Đến năm 1938 – lúc đó tôi cũng đã 22 tuổi – Tôi ra Hà Nội
thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên
tôi không có ý định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài thời
Pháp rất khó khăn. Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục
năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những người đậu khóa ấy, trong đó có
Nguyễn Đình Thi , Hồ Trọng Gin, Trịnh Văn Xuấn, Đỗ Thiện và…tôi – Nguyễn Hữu
Loan.
Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh
Hóa để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý,
mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái Thị Ngọc
Chất, bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ, tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau
này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên.
Ở Thanh Hóa, bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách
báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới. Bà tham
Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác
như người nhà.
Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con
gái – lúc đó mới 8 tuổi - mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: ”
Em chào thầy ạ!” Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi
mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằn sâu vào tâm trí tôi, theo
tôi suốt cả cuộc đời.
Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị
Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ
bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu đấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng
thì cứ y như một “bà cụ non”.
Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo: em
đặt vào góc mâm cơm chỗ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả
chanh mọng nước em vừa hái ở vườn, những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em
lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt …..
Có lần tôi kể chuyện ”bà cụ non” ít nói cho hai người anh
của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em giận! Suốt một tuần
liền, em nằm lì trong buồng trong, không chịu học hành… Một hôm bà tham Kỳ dẫn
tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa,
chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện em nghe, rồi tôi đọc
thơ…
Trưa hôm ấy, em ngồi dậy ăn một bát to cháo gà và bước ra
khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả
nhà không ai đồng ý: “Mới ốm dậy còn yếu lắm, không đi được đâu” Em không chịu
nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà
tham Kỳ đưa em lên núi chơi …..
Xe kéo chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi
nhanh như một con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi. Lên đến đỉnh đồi, em ngồi
xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em.Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói
gì.
Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân
trời, không biết lúc đó em nghĩ gì. Bất chợt em hỏi tôi:
- Thầy có thích ăn sim không ?
Tôi nhìn xuống sườn đồi tím ngắt một màu sim. Em đứng lên
đi xuống sườn đồi, còn tôi vì mệt quá nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ…
Khi tôi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp
sim. Những quả sim đen láy chín mọng.
- Thầy ăn đi.
Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng trầm
trồ:
- Ngọt quá!
Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, quả
sim đối với tôi chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ ăn những quả
sim ngọt đến thế!
Cứ thế, chúng tôi ăn hết qủa này đến qủa khác. Tôi nhìn
em, em cười. Hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì… tím
đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo!
Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa
hẹn can thiệp của ông bà tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến.
Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng
nhìn theo. Tôi đi… lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng ,em vẫn đứng đó nhỏ bé và
mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và
lầm lũi đi…Tôi quay đầu nhìn lại… em vẫn đứng yên đó… Tôi lại đi và nhìn lại đến
khi không còn nhìn thấy em nữa.
Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn được
tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể
lại, khi em mới 15 tuổi đã có nhiều chàng trai đên ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ
trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ …
Chín năm sau, tôi trở lại nhà… Về Nông Cống tìm em. Hôm
gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em, hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn
lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa
rồi.
Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp… Yêu nhau
lắm nhưng tôi vẫn lo sợ vì hai gia đình không môn đăng hộ đối một chút nào. Mãi
sau này mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm
”soạn kịch bản”.
Một tuần sau đó chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo
cưới thì em gạt đi, không đòi may áo cưới trong ngày hợp hôn, bảo rằng là: "yêu
nhau, thương nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả”.
Tôi cao ráo, học giỏi, Làm thơ hay…lại đẹp trai nên em
thường gọi đùa là anh chồng độc đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long, huyện
Nông Công, tỉnh Thanh Hóa của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu
ruộng.
Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh
phúc hơn bao giờ hết! Hai tuần phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức
tốc lên đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ.
Hôm tiễn tôi lên đường, em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín
năm trước em đã đứng. Chỉ có giờ em không còn cô bé Ninh nữa mà là người bạn đời
yêu quý của tôi. Tôi bước đi, rồi quay đầu nhìn lại…..
Nếu như chín năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn
man mác thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống. Ba
tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương: Hôm
đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn
(thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên
trượt chân chết đuối!
Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi
người bạn lòng tri kỷ, để lại tôi tôi nỗi đau không gì bù đắp nỗi. Nỗi đau ấy,
gần 60 năm qua, vẫn nằm sâu thẳm trong trái tim tôi.Tôi phải giấu kín nỗi đau
trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến
đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn…
Dường như càng kìm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May
sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra, nói cho
hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong lòng tôi được bung ra. Khi ấy chúng tôi đang
đóng quân ở Nghệ An, tôi ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy
bút ra ghi chép.
Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc
cứ trào ra: “Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội… Những em nàng có em chưa biết
nói. Khi tóc nàng đang xanh…” Tôi về không gặp nàng…
Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm
bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh
Hóa… Anh bạn này đã chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến
tranh.
Đó là bài thơ Màu
tím hoa Sim. Đến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh
ngày 2-4-1916 hiện tại đang “ở nhà trông vườn” ở làng Nguyên Hoàn – nơi tôi gọi
là chỗ “quê đẻ của tôi đấy” thuộc xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh
Hóa.
Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay nơi em bị
nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho
nên tôi viết mới nổi những câu : “Chiều hành quân, qua những đồi sim…
Những đồi sim, những đồi hoa sim.. Những đồi hoa sim dài
trong chiều không hết.. Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt…Và chiều
hoang tím có chiều hoang biết…Chiều hoang tim tím thêm màu da diết.”
Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời... từ giã văn đàn về
quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi” hay cãi, thích chống đối, không thể
làm gì trái với suy nghĩ của tôi”. Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều...
Mặc kệ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi quá!
Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó tôi lại
đề cao tình yêu, tôi khóc người vợ tử tế của mình, người bạn đời hiếm có của
mình. Lúc đó tôi khóc như vậy họ cho là khóc cái tình cảm riêng…
Y như trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới
lấy nhau chưa được hơn một tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi chết đuối ở
sông…
Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ
cho tôi là phản động. Tôi phản động ở chỗ nào? Cái đau khổ của con người, tại
sao lại không được khóc? Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối
với người vợ mà tôi hằng yêu quý...
Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe
đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng
bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có hai cái càng ở phía sau để
đủn hay kéo.
Xe cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng
vai tôi, tôi cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn
cản...
Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống
cùng tôi cho đến tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là phụ nữ có tâm hồn sâu
sắc. Cô vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ
năm 1954, 1955. Lúc đó tôi còn là chính trị viên của tiểu đoàn. Tôi thấy tận mắt
những chuyện đấu tố. Là người có học, lại có tâm hồn nghệ sĩ nên tôi cảm thấy
chán nản quá, không còn hăng hái nữa.
Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng. Trong một xã
thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách xa nơi tôi ở 15 cây số, có một gia
đình địa chủ rất giàu, nắm trong gần năm trăm mẫu tư điền. Trước đây, ông địa
chủ đó giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước.
Ông thấy bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn nên ông
thường cho tá điền gánh gạo đến chỗ đóng quân để ủng hộ. Tôi là trưởng phòng
tuyên huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên phải thay mặt anh em ra cám ơn
tấm lòng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen
ngợi để vinh danh ông .
Thế rồi, một hôm, tôi nghe tin gia đình ông đã bị đấu tố.
Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha
chết nhưng bị đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách.
... Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé
cứ buổi chiều lại lén lút đứng núp bên ngoài cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường
Mai Anh Tuấn. Lúc gần tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem
luốc....
Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi
thăm và được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc
rưng rức và nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ
đói lòng, tối về ngủ trong chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy và
không biết ngày mai còn sống hay bị chết đói. Tôi suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết
định đem cô về làng tôi, và bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ.
Sự quyết định của tôi không lầm. Quê tôi nghèo, lúc đó
tôi còn ở trong bộ đội nên không có tiền, nhưng cô chịu thương chịu khó, bữa đói
bữa no… Cho đến bây giờ cô đã cho tôi 10 người con – 6 trai, 4 gái – và cháu nội
ngoại hơn 30 đứa!
Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường,
chẳng màng đến thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn
sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm
thơ...
Năm 1988, tôi "tái xuất giang hồ” sau 30 năm tự chôn và
bị chôn mình ở chốn quê nghèo đèo heo hút gió. Tôi lang bạt gần một năm trời
theo chuyến đi xuyên Việt do hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ
chức.
Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty Viek VTB
đột nhiên đề nghị mua bản quyển bài Màu
tím hoa Sim của tôi với giá 100 triệu đồng. Họ bảo đó là một hình thức bảo
tồn tài sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90
triệu, chia “lộc” cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu đồng,
phòng đau ốm lúc tuổi già, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang
tên Thơ Hữu Loan.
Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng
mua mấy bài thơ khác, nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để
bán".
Nhà
thơ Hữu Loan
Những người yêu thơ tình, không ai không biết đến bài thơ
"Màu tím hoa sim đầy xúc động". Đằng sau đó là một câu chuyện còn sâu sắc hơn,
đau đáu hơn của tác giả Hữu Loan.
Nhà
thơ Hữu Loan
Nàng
có ba người anh
Đi bộ
đội Những em nàng còn chưa biết nói Khi tóc nàng xanh xanh. Tôi là người chiến
binh Xa gia đình Yêu nàng như tình yêu em gái Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo
cưới, Tôi mặc đồ quân nhân Đôi giày đinh bết bùn đất hành quân, Nàng cười xinh
xinh Bên anh chồng độc đáo. Tôi ở đơn vị về Cưới nhau xong là
đi!
Từ
chiến khu xa Nhớ về ái ngại Lấy chồng đời chiến chinh Mấy người đi trở lại Lỡ
khi mình không về Thì thương người vợ chờ Bé bỏng chiều quê ... Nhưng không chết
người trai khói lửa Mà chết người gái nhỏ hậu phương Tôi về không gặp nàng Má
tôi ngồi bên mộ con Đầy bóng tối Chiếc bình hoa ngày cưới Thành bình hương Tàn
lạnh vây quanh ... Tóc nàng xanh xanh Ngắn chưa đầy búi Em ơi! Giây phút cuối
Không được nghe nhau nói Không được trông thấy nhau một lần. Ngày xưa nàng yêu
hoa sim tím áo nàng màu tím hoa sim Ngày xưa một mình đèn khuya bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo ngày xưa... Một chiều rừng mưa Ba người anh Trên
chiến trường Đông Bắc, Biết tin em gái mất Trước tin em lấy chồng. Gió sớm thu
về Rờn rợn nước sông Đứa em nhỏ lớn lên Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị Khi gió thu về Cỏ
vàng chân mộ chí. Chiều hành quân Qua những đồi sim .. Những đồi hoa sim ...,
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết Màu tím hoa sim Tím cả chiều hoang
biền biệt Nhìn áo rách vai Tôi hát trong màu hoa. Áo tôi sứt chỉ đường tà, Vợ
tôi chết sớm mẹ già chưa khâu
Hữu
Loan
|
Xin
trích đăng những dòng tự thuật của chính nhà thơ Hữu Loan:
"Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có
cơ may cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa, chỉ được cha dạy cho dăm
chữ bữa có bữa không ở nhà. Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh
hơn người. Lên trung học, theo ban thành chung tôi cũng học tại Thanh Hóa, không
có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học.
Đến năm 1938 – lúc đó tôi cũng đã 22 tuổi – Tôi ra Hà Nội
thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên
tôi không có ý định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài thời
Pháp rất khó khăn. Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục
năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những người đậu khóa ấy, trong đó có
Nguyễn Đình Thi , Hồ Trọng Gin, Trịnh Văn Xuấn, Đỗ Thiện và…tôi – Nguyễn Hữu
Loan.
Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh
Hóa để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý,
mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái Thị Ngọc
Chất, bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ, tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau
này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên.
Ở Thanh Hóa, bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách
báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới. Bà tham
Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác
như người nhà.
Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con
gái – lúc đó mới 8 tuổi - mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: ”
Em chào thầy ạ!” Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi
mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằn sâu vào tâm trí tôi, theo
tôi suốt cả cuộc đời.
Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị
Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ
bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu đấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng
thì cứ y như một “bà cụ non”.
Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo: em
đặt vào góc mâm cơm chỗ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả
chanh mọng nước em vừa hái ở vườn, những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em
lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt …..
Có lần tôi kể chuyện ”bà cụ non” ít nói cho hai người anh
của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em giận! Suốt một tuần
liền, em nằm lì trong buồng trong, không chịu học hành… Một hôm bà tham Kỳ dẫn
tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa,
chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện em nghe, rồi tôi đọc
thơ…
Trưa hôm ấy, em ngồi dậy ăn một bát to cháo gà và bước ra
khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả
nhà không ai đồng ý: “Mới ốm dậy còn yếu lắm, không đi được đâu” Em không chịu
nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà
tham Kỳ đưa em lên núi chơi …..
Xe kéo chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi
nhanh như một con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi. Lên đến đỉnh đồi, em ngồi
xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em.Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói
gì.
Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân
trời, không biết lúc đó em nghĩ gì. Bất chợt em hỏi tôi:
- Thầy có thích ăn sim không ?
Tôi nhìn xuống sườn đồi tím ngắt một màu sim. Em đứng lên
đi xuống sườn đồi, còn tôi vì mệt quá nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ…
Khi tôi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp
sim. Những quả sim đen láy chín mọng.
- Thầy ăn đi.
Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng trầm
trồ:
- Ngọt quá!
Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, quả
sim đối với tôi chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ ăn những quả
sim ngọt đến thế!
Cứ thế, chúng tôi ăn hết qủa này đến qủa khác. Tôi nhìn
em, em cười. Hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì… tím
đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo!
Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa
hẹn can thiệp của ông bà tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến.
Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng
nhìn theo. Tôi đi… lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng ,em vẫn đứng đó nhỏ bé và
mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và
lầm lũi đi…Tôi quay đầu nhìn lại… em vẫn đứng yên đó… Tôi lại đi và nhìn lại đến
khi không còn nhìn thấy em nữa.
Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn được
tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể
lại, khi em mới 15 tuổi đã có nhiều chàng trai đên ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ
trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ …
Chín năm sau, tôi trở lại nhà… Về Nông Cống tìm em. Hôm
gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em, hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn
lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa
rồi.
Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp… Yêu nhau
lắm nhưng tôi vẫn lo sợ vì hai gia đình không môn đăng hộ đối một chút nào. Mãi
sau này mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm
”soạn kịch bản”.
Một tuần sau đó chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo
cưới thì em gạt đi, không đòi may áo cưới trong ngày hợp hôn, bảo rằng là: "yêu
nhau, thương nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả”.
Tôi cao ráo, học giỏi, Làm thơ hay…lại đẹp trai nên em
thường gọi đùa là anh chồng độc đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long, huyện
Nông Công, tỉnh Thanh Hóa của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu
ruộng.
Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh
phúc hơn bao giờ hết! Hai tuần phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức
tốc lên đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ.
Hôm tiễn tôi lên đường, em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín
năm trước em đã đứng. Chỉ có giờ em không còn cô bé Ninh nữa mà là người bạn đời
yêu quý của tôi. Tôi bước đi, rồi quay đầu nhìn lại…..
Nếu như chín năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn
man mác thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống. Ba
tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương: Hôm
đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn
(thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên
trượt chân chết đuối!
Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi
người bạn lòng tri kỷ, để lại tôi tôi nỗi đau không gì bù đắp nỗi. Nỗi đau ấy,
gần 60 năm qua, vẫn nằm sâu thẳm trong trái tim tôi.Tôi phải giấu kín nỗi đau
trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến
đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn…
Dường như càng kìm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May
sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra, nói cho
hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong lòng tôi được bung ra. Khi ấy chúng tôi đang
đóng quân ở Nghệ An, tôi ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy
bút ra ghi chép.
Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc
cứ trào ra: “Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội… Những em nàng có em chưa biết
nói. Khi tóc nàng đang xanh…” Tôi về không gặp nàng…
Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm
bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh
Hóa… Anh bạn này đã chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến
tranh.
Đó là bài thơ Màu
tím hoa Sim. Đến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh
ngày 2-4-1916 hiện tại đang “ở nhà trông vườn” ở làng Nguyên Hoàn – nơi tôi gọi
là chỗ “quê đẻ của tôi đấy” thuộc xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh
Hóa.
Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay nơi em bị
nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho
nên tôi viết mới nổi những câu : “Chiều hành quân, qua những đồi sim…
Những đồi sim, những đồi hoa sim.. Những đồi hoa sim dài
trong chiều không hết.. Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt…Và chiều
hoang tím có chiều hoang biết…Chiều hoang tim tím thêm màu da diết.”
Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời... từ giã văn đàn về
quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi” hay cãi, thích chống đối, không thể
làm gì trái với suy nghĩ của tôi”. Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều...
Mặc kệ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi quá!
Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó tôi lại
đề cao tình yêu, tôi khóc người vợ tử tế của mình, người bạn đời hiếm có của
mình. Lúc đó tôi khóc như vậy họ cho là khóc cái tình cảm riêng…
Y như trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới
lấy nhau chưa được hơn một tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi chết đuối ở
sông…
Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ
cho tôi là phản động. Tôi phản động ở chỗ nào? Cái đau khổ của con người, tại
sao lại không được khóc? Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối
với người vợ mà tôi hằng yêu quý...
Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe
đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng
bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có hai cái càng ở phía sau để
đủn hay kéo.
Xe cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng
vai tôi, tôi cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn
cản...
Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống
cùng tôi cho đến tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là phụ nữ có tâm hồn sâu
sắc. Cô vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ
năm 1954, 1955. Lúc đó tôi còn là chính trị viên của tiểu đoàn. Tôi thấy tận mắt
những chuyện đấu tố. Là người có học, lại có tâm hồn nghệ sĩ nên tôi cảm thấy
chán nản quá, không còn hăng hái nữa.
Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng. Trong một xã
thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách xa nơi tôi ở 15 cây số, có một gia
đình địa chủ rất giàu, nắm trong gần năm trăm mẫu tư điền. Trước đây, ông địa
chủ đó giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước.
Ông thấy bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn nên ông
thường cho tá điền gánh gạo đến chỗ đóng quân để ủng hộ. Tôi là trưởng phòng
tuyên huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên phải thay mặt anh em ra cám ơn
tấm lòng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen
ngợi để vinh danh ông .
Thế rồi, một hôm, tôi nghe tin gia đình ông đã bị đấu tố.
Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha
chết nhưng bị đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách.
... Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé
cứ buổi chiều lại lén lút đứng núp bên ngoài cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường
Mai Anh Tuấn. Lúc gần tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem
luốc....
Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi
thăm và được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc
rưng rức và nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ
đói lòng, tối về ngủ trong chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy và
không biết ngày mai còn sống hay bị chết đói. Tôi suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết
định đem cô về làng tôi, và bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ.
Sự quyết định của tôi không lầm. Quê tôi nghèo, lúc đó
tôi còn ở trong bộ đội nên không có tiền, nhưng cô chịu thương chịu khó, bữa đói
bữa no… Cho đến bây giờ cô đã cho tôi 10 người con – 6 trai, 4 gái – và cháu nội
ngoại hơn 30 đứa!
Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường,
chẳng màng đến thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn
sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm
thơ...
Năm 1988, tôi "tái xuất giang hồ” sau 30 năm tự chôn và
bị chôn mình ở chốn quê nghèo đèo heo hút gió. Tôi lang bạt gần một năm trời
theo chuyến đi xuyên Việt do hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ
chức.
Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty Viek VTB
đột nhiên đề nghị mua bản quyển bài Màu
tím hoa Sim của tôi với giá 100 triệu đồng. Họ bảo đó là một hình thức bảo
tồn tài sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90
triệu, chia “lộc” cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu đồng,
phòng đau ốm lúc tuổi già, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang
tên Thơ Hữu Loan.
Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng
mua mấy bài thơ khác, nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để
bán".
Nhà
thơ Hữu Loan
Những tự sự của nhà thơ Hữu Loan, cha đẻ "Màu tím hoa sim nổi tiếng" đã tạo ra niềm xúc động lớn trong với cộng đồng mạng. Tự sự đớn đau này được chia sẻ rất nhiều trên Facebook tạo nên nhiều thổn thức. "Rất cảm động, vì sự chân thành, vì tình người, tính người. Và có thể hình dung cả bối cảnh một thời cuộc tao loạn. Mỗi số phận cá nhân đều chứa trong lòng nó những bi kịch của lịch sử" - (Kim Dung)
Những người yêu thơ tình, không ai không biết đến bài thơ
"Màu tím hoa sim đầy xúc động". Đằng sau đó là một câu chuyện còn sâu sắc hơn,
đau đáu hơn của tác giả Hữu Loan.
Nhà
thơ Hữu Loan
Nàng
có ba người anh
Đi bộ
đội Những em nàng còn chưa biết nói Khi tóc nàng xanh xanh. Tôi là người chiến
binh Xa gia đình Yêu nàng như tình yêu em gái Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo
cưới, Tôi mặc đồ quân nhân Đôi giày đinh bết bùn đất hành quân, Nàng cười xinh
xinh Bên anh chồng độc đáo. Tôi ở đơn vị về Cưới nhau xong là
đi!
Từ
chiến khu xa Nhớ về ái ngại Lấy chồng đời chiến chinh Mấy người đi trở lại Lỡ
khi mình không về Thì thương người vợ chờ Bé bỏng chiều quê ... Nhưng không chết
người trai khói lửa Mà chết người gái nhỏ hậu phương Tôi về không gặp nàng Má
tôi ngồi bên mộ con Đầy bóng tối Chiếc bình hoa ngày cưới Thành bình hương Tàn
lạnh vây quanh ... Tóc nàng xanh xanh Ngắn chưa đầy búi Em ơi! Giây phút cuối
Không được nghe nhau nói Không được trông thấy nhau một lần. Ngày xưa nàng yêu
hoa sim tím áo nàng màu tím hoa sim Ngày xưa một mình đèn khuya bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo ngày xưa... Một chiều rừng mưa Ba người anh Trên
chiến trường Đông Bắc, Biết tin em gái mất Trước tin em lấy chồng. Gió sớm thu
về Rờn rợn nước sông Đứa em nhỏ lớn lên Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị Khi gió thu về Cỏ
vàng chân mộ chí. Chiều hành quân Qua những đồi sim .. Những đồi hoa sim ...,
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết Màu tím hoa sim Tím cả chiều hoang
biền biệt Nhìn áo rách vai Tôi hát trong màu hoa. Áo tôi sứt chỉ đường tà, Vợ
tôi chết sớm mẹ già chưa khâu
Hữu
Loan
Xin
trích đăng những dòng tự thuật của chính nhà thơ Hữu Loan:
"Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có
cơ may cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa, chỉ được cha dạy cho dăm
chữ bữa có bữa không ở nhà. Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh
hơn người. Lên trung học, theo ban thành chung tôi cũng học tại Thanh Hóa, không
có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học.
Đến năm 1938 – lúc đó tôi cũng đã 22 tuổi – Tôi ra Hà Nội
thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên
tôi không có ý định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài thời
Pháp rất khó khăn. Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục
năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những người đậu khóa ấy, trong đó có
Nguyễn Đình Thi , Hồ Trọng Gin, Trịnh Văn Xuấn, Đỗ Thiện và…tôi – Nguyễn Hữu
Loan.
Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh
Hóa để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý,
mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái Thị Ngọc
Chất, bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ, tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau
này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên.
Ở Thanh Hóa, bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách
báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới. Bà tham
Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác
như người nhà.
Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con
gái – lúc đó mới 8 tuổi - mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: ”
Em chào thầy ạ!” Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi
mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằn sâu vào tâm trí tôi, theo
tôi suốt cả cuộc đời.
Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị
Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ
bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu đấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng
thì cứ y như một “bà cụ non”.
Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo: em
đặt vào góc mâm cơm chỗ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả
chanh mọng nước em vừa hái ở vườn, những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em
lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt …..
Có lần tôi kể chuyện ”bà cụ non” ít nói cho hai người anh
của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em giận! Suốt một tuần
liền, em nằm lì trong buồng trong, không chịu học hành… Một hôm bà tham Kỳ dẫn
tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa,
chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện em nghe, rồi tôi đọc
thơ…
Trưa hôm ấy, em ngồi dậy ăn một bát to cháo gà và bước ra
khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả
nhà không ai đồng ý: “Mới ốm dậy còn yếu lắm, không đi được đâu” Em không chịu
nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà
tham Kỳ đưa em lên núi chơi …..
Xe kéo chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi
nhanh như một con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi. Lên đến đỉnh đồi, em ngồi
xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em.Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói
gì.
Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân
trời, không biết lúc đó em nghĩ gì. Bất chợt em hỏi tôi:
- Thầy có thích ăn sim không ?
Tôi nhìn xuống sườn đồi tím ngắt một màu sim. Em đứng lên
đi xuống sườn đồi, còn tôi vì mệt quá nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ…
Khi tôi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp
sim. Những quả sim đen láy chín mọng.
- Thầy ăn đi.
Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng trầm
trồ:
- Ngọt quá!
Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, quả
sim đối với tôi chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ ăn những quả
sim ngọt đến thế!
Cứ thế, chúng tôi ăn hết qủa này đến qủa khác. Tôi nhìn
em, em cười. Hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì… tím
đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo!
Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa
hẹn can thiệp của ông bà tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến.
Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng
nhìn theo. Tôi đi… lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng ,em vẫn đứng đó nhỏ bé và
mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và
lầm lũi đi…Tôi quay đầu nhìn lại… em vẫn đứng yên đó… Tôi lại đi và nhìn lại đến
khi không còn nhìn thấy em nữa.
Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn được
tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể
lại, khi em mới 15 tuổi đã có nhiều chàng trai đên ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ
trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ …
Chín năm sau, tôi trở lại nhà… Về Nông Cống tìm em. Hôm
gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em, hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn
lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa
rồi.
Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp… Yêu nhau
lắm nhưng tôi vẫn lo sợ vì hai gia đình không môn đăng hộ đối một chút nào. Mãi
sau này mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm
”soạn kịch bản”.
Một tuần sau đó chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo
cưới thì em gạt đi, không đòi may áo cưới trong ngày hợp hôn, bảo rằng là: "yêu
nhau, thương nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả”.
Tôi cao ráo, học giỏi, Làm thơ hay…lại đẹp trai nên em
thường gọi đùa là anh chồng độc đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long, huyện
Nông Công, tỉnh Thanh Hóa của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu
ruộng.
Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh
phúc hơn bao giờ hết! Hai tuần phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức
tốc lên đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ.
Hôm tiễn tôi lên đường, em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín
năm trước em đã đứng. Chỉ có giờ em không còn cô bé Ninh nữa mà là người bạn đời
yêu quý của tôi. Tôi bước đi, rồi quay đầu nhìn lại…..
Nếu như chín năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn
man mác thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống. Ba
tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương: Hôm
đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn
(thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên
trượt chân chết đuối!
Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi
người bạn lòng tri kỷ, để lại tôi tôi nỗi đau không gì bù đắp nỗi. Nỗi đau ấy,
gần 60 năm qua, vẫn nằm sâu thẳm trong trái tim tôi.Tôi phải giấu kín nỗi đau
trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến
đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn…
Dường như càng kìm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May
sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra, nói cho
hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong lòng tôi được bung ra. Khi ấy chúng tôi đang
đóng quân ở Nghệ An, tôi ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy
bút ra ghi chép.
Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc
cứ trào ra: “Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội… Những em nàng có em chưa biết
nói. Khi tóc nàng đang xanh…” Tôi về không gặp nàng…
Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm
bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh
Hóa… Anh bạn này đã chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến
tranh.
Đó là bài thơ Màu
tím hoa Sim. Đến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh
ngày 2-4-1916 hiện tại đang “ở nhà trông vườn” ở làng Nguyên Hoàn – nơi tôi gọi
là chỗ “quê đẻ của tôi đấy” thuộc xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh
Hóa.
Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay nơi em bị
nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho
nên tôi viết mới nổi những câu : “Chiều hành quân, qua những đồi sim…
Những đồi sim, những đồi hoa sim.. Những đồi hoa sim dài
trong chiều không hết.. Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt…Và chiều
hoang tím có chiều hoang biết…Chiều hoang tim tím thêm màu da diết.”
Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời... từ giã văn đàn về
quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi” hay cãi, thích chống đối, không thể
làm gì trái với suy nghĩ của tôi”. Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều...
Mặc kệ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi quá!
Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó tôi lại
đề cao tình yêu, tôi khóc người vợ tử tế của mình, người bạn đời hiếm có của
mình. Lúc đó tôi khóc như vậy họ cho là khóc cái tình cảm riêng…
Y như trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới
lấy nhau chưa được hơn một tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi chết đuối ở
sông…
Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ
cho tôi là phản động. Tôi phản động ở chỗ nào? Cái đau khổ của con người, tại
sao lại không được khóc? Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối
với người vợ mà tôi hằng yêu quý...
Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe
đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng
bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có hai cái càng ở phía sau để
đủn hay kéo.
Xe cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng
vai tôi, tôi cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn
cản...
Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống
cùng tôi cho đến tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là phụ nữ có tâm hồn sâu
sắc. Cô vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ
năm 1954, 1955. Lúc đó tôi còn là chính trị viên của tiểu đoàn. Tôi thấy tận mắt
những chuyện đấu tố. Là người có học, lại có tâm hồn nghệ sĩ nên tôi cảm thấy
chán nản quá, không còn hăng hái nữa.
Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng. Trong một xã
thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách xa nơi tôi ở 15 cây số, có một gia
đình địa chủ rất giàu, nắm trong gần năm trăm mẫu tư điền. Trước đây, ông địa
chủ đó giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước.
Ông thấy bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn nên ông
thường cho tá điền gánh gạo đến chỗ đóng quân để ủng hộ. Tôi là trưởng phòng
tuyên huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên phải thay mặt anh em ra cám ơn
tấm lòng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen
ngợi để vinh danh ông .
Thế rồi, một hôm, tôi nghe tin gia đình ông đã bị đấu tố.
Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha
chết nhưng bị đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách.
... Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé
cứ buổi chiều lại lén lút đứng núp bên ngoài cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường
Mai Anh Tuấn. Lúc gần tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem
luốc....
Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi
thăm và được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc
rưng rức và nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ
đói lòng, tối về ngủ trong chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy và
không biết ngày mai còn sống hay bị chết đói. Tôi suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết
định đem cô về làng tôi, và bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ.
Sự quyết định của tôi không lầm. Quê tôi nghèo, lúc đó
tôi còn ở trong bộ đội nên không có tiền, nhưng cô chịu thương chịu khó, bữa đói
bữa no… Cho đến bây giờ cô đã cho tôi 10 người con – 6 trai, 4 gái – và cháu nội
ngoại hơn 30 đứa!
Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường,
chẳng màng đến thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn
sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm
thơ...
Năm 1988, tôi "tái xuất giang hồ” sau 30 năm tự chôn và
bị chôn mình ở chốn quê nghèo đèo heo hút gió. Tôi lang bạt gần một năm trời
theo chuyến đi xuyên Việt do hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ
chức.
Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty Viek VTB
đột nhiên đề nghị mua bản quyển bài Màu
tím hoa Sim của tôi với giá 100 triệu đồng. Họ bảo đó là một hình thức bảo
tồn tài sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90
triệu, chia “lộc” cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu đồng,
phòng đau ốm lúc tuổi già, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang
tên Thơ Hữu Loan.
Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng
mua mấy bài thơ khác, nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để
bán".
Nhà
thơ Hữu Loan
Những người yêu thơ tình, không ai không biết đến bài thơ
"Màu tím hoa sim đầy xúc động". Đằng sau đó là một câu chuyện còn sâu sắc hơn,
đau đáu hơn của tác giả Hữu Loan.
Nhà
thơ Hữu Loan
Nàng
có ba người anh
Đi bộ
đội Những em nàng còn chưa biết nói Khi tóc nàng xanh xanh. Tôi là người chiến
binh Xa gia đình Yêu nàng như tình yêu em gái Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo
cưới, Tôi mặc đồ quân nhân Đôi giày đinh bết bùn đất hành quân, Nàng cười xinh
xinh Bên anh chồng độc đáo. Tôi ở đơn vị về Cưới nhau xong là
đi!
Từ
chiến khu xa Nhớ về ái ngại Lấy chồng đời chiến chinh Mấy người đi trở lại Lỡ
khi mình không về Thì thương người vợ chờ Bé bỏng chiều quê ... Nhưng không chết
người trai khói lửa Mà chết người gái nhỏ hậu phương Tôi về không gặp nàng Má
tôi ngồi bên mộ con Đầy bóng tối Chiếc bình hoa ngày cưới Thành bình hương Tàn
lạnh vây quanh ... Tóc nàng xanh xanh Ngắn chưa đầy búi Em ơi! Giây phút cuối
Không được nghe nhau nói Không được trông thấy nhau một lần. Ngày xưa nàng yêu
hoa sim tím áo nàng màu tím hoa sim Ngày xưa một mình đèn khuya bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo ngày xưa... Một chiều rừng mưa Ba người anh Trên
chiến trường Đông Bắc, Biết tin em gái mất Trước tin em lấy chồng. Gió sớm thu
về Rờn rợn nước sông Đứa em nhỏ lớn lên Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị Khi gió thu về Cỏ
vàng chân mộ chí. Chiều hành quân Qua những đồi sim .. Những đồi hoa sim ...,
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết Màu tím hoa sim Tím cả chiều hoang
biền biệt Nhìn áo rách vai Tôi hát trong màu hoa. Áo tôi sứt chỉ đường tà, Vợ
tôi chết sớm mẹ già chưa khâu
Hữu
Loan
|
Xin
trích đăng những dòng tự thuật của chính nhà thơ Hữu Loan:
"Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có
cơ may cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa, chỉ được cha dạy cho dăm
chữ bữa có bữa không ở nhà. Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh
hơn người. Lên trung học, theo ban thành chung tôi cũng học tại Thanh Hóa, không
có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học.
Đến năm 1938 – lúc đó tôi cũng đã 22 tuổi – Tôi ra Hà Nội
thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên
tôi không có ý định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài thời
Pháp rất khó khăn. Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục
năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những người đậu khóa ấy, trong đó có
Nguyễn Đình Thi , Hồ Trọng Gin, Trịnh Văn Xuấn, Đỗ Thiện và…tôi – Nguyễn Hữu
Loan.
Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh
Hóa để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý,
mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái Thị Ngọc
Chất, bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ, tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau
này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên.
Ở Thanh Hóa, bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách
báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới. Bà tham
Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác
như người nhà.
Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con
gái – lúc đó mới 8 tuổi - mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: ”
Em chào thầy ạ!” Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi
mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằn sâu vào tâm trí tôi, theo
tôi suốt cả cuộc đời.
Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị
Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ
bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu đấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng
thì cứ y như một “bà cụ non”.
Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo: em
đặt vào góc mâm cơm chỗ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả
chanh mọng nước em vừa hái ở vườn, những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em
lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt …..
Có lần tôi kể chuyện ”bà cụ non” ít nói cho hai người anh
của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em giận! Suốt một tuần
liền, em nằm lì trong buồng trong, không chịu học hành… Một hôm bà tham Kỳ dẫn
tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa,
chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện em nghe, rồi tôi đọc
thơ…
Trưa hôm ấy, em ngồi dậy ăn một bát to cháo gà và bước ra
khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả
nhà không ai đồng ý: “Mới ốm dậy còn yếu lắm, không đi được đâu” Em không chịu
nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà
tham Kỳ đưa em lên núi chơi …..
Xe kéo chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi
nhanh như một con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi. Lên đến đỉnh đồi, em ngồi
xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em.Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói
gì.
Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân
trời, không biết lúc đó em nghĩ gì. Bất chợt em hỏi tôi:
- Thầy có thích ăn sim không ?
Tôi nhìn xuống sườn đồi tím ngắt một màu sim. Em đứng lên
đi xuống sườn đồi, còn tôi vì mệt quá nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ…
Khi tôi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp
sim. Những quả sim đen láy chín mọng.
- Thầy ăn đi.
Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng trầm
trồ:
- Ngọt quá!
Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, quả
sim đối với tôi chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ ăn những quả
sim ngọt đến thế!
Cứ thế, chúng tôi ăn hết qủa này đến qủa khác. Tôi nhìn
em, em cười. Hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì… tím
đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo!
Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa
hẹn can thiệp của ông bà tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến.
Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng
nhìn theo. Tôi đi… lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng ,em vẫn đứng đó nhỏ bé và
mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và
lầm lũi đi…Tôi quay đầu nhìn lại… em vẫn đứng yên đó… Tôi lại đi và nhìn lại đến
khi không còn nhìn thấy em nữa.
Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn được
tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể
lại, khi em mới 15 tuổi đã có nhiều chàng trai đên ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ
trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ …
Chín năm sau, tôi trở lại nhà… Về Nông Cống tìm em. Hôm
gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em, hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn
lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa
rồi.
Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp… Yêu nhau
lắm nhưng tôi vẫn lo sợ vì hai gia đình không môn đăng hộ đối một chút nào. Mãi
sau này mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm
”soạn kịch bản”.
Một tuần sau đó chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo
cưới thì em gạt đi, không đòi may áo cưới trong ngày hợp hôn, bảo rằng là: "yêu
nhau, thương nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả”.
Tôi cao ráo, học giỏi, Làm thơ hay…lại đẹp trai nên em
thường gọi đùa là anh chồng độc đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long, huyện
Nông Công, tỉnh Thanh Hóa của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu
ruộng.
Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh
phúc hơn bao giờ hết! Hai tuần phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức
tốc lên đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ.
Hôm tiễn tôi lên đường, em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín
năm trước em đã đứng. Chỉ có giờ em không còn cô bé Ninh nữa mà là người bạn đời
yêu quý của tôi. Tôi bước đi, rồi quay đầu nhìn lại…..
Nếu như chín năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn
man mác thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống. Ba
tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương: Hôm
đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn
(thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên
trượt chân chết đuối!
Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi
người bạn lòng tri kỷ, để lại tôi tôi nỗi đau không gì bù đắp nỗi. Nỗi đau ấy,
gần 60 năm qua, vẫn nằm sâu thẳm trong trái tim tôi.Tôi phải giấu kín nỗi đau
trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến
đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn…
Dường như càng kìm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May
sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra, nói cho
hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong lòng tôi được bung ra. Khi ấy chúng tôi đang
đóng quân ở Nghệ An, tôi ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy
bút ra ghi chép.
Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc
cứ trào ra: “Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội… Những em nàng có em chưa biết
nói. Khi tóc nàng đang xanh…” Tôi về không gặp nàng…
Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm
bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh
Hóa… Anh bạn này đã chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến
tranh.
Đó là bài thơ Màu
tím hoa Sim. Đến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh
ngày 2-4-1916 hiện tại đang “ở nhà trông vườn” ở làng Nguyên Hoàn – nơi tôi gọi
là chỗ “quê đẻ của tôi đấy” thuộc xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh
Hóa.
Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay nơi em bị
nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho
nên tôi viết mới nổi những câu : “Chiều hành quân, qua những đồi sim…
Những đồi sim, những đồi hoa sim.. Những đồi hoa sim dài
trong chiều không hết.. Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt…Và chiều
hoang tím có chiều hoang biết…Chiều hoang tim tím thêm màu da diết.”
Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời... từ giã văn đàn về
quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi” hay cãi, thích chống đối, không thể
làm gì trái với suy nghĩ của tôi”. Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều...
Mặc kệ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi quá!
Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó tôi lại
đề cao tình yêu, tôi khóc người vợ tử tế của mình, người bạn đời hiếm có của
mình. Lúc đó tôi khóc như vậy họ cho là khóc cái tình cảm riêng…
Y như trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới
lấy nhau chưa được hơn một tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi chết đuối ở
sông…
Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ
cho tôi là phản động. Tôi phản động ở chỗ nào? Cái đau khổ của con người, tại
sao lại không được khóc? Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối
với người vợ mà tôi hằng yêu quý...
Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe
đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng
bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có hai cái càng ở phía sau để
đủn hay kéo.
Xe cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng
vai tôi, tôi cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn
cản...
Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống
cùng tôi cho đến tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là phụ nữ có tâm hồn sâu
sắc. Cô vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ
năm 1954, 1955. Lúc đó tôi còn là chính trị viên của tiểu đoàn. Tôi thấy tận mắt
những chuyện đấu tố. Là người có học, lại có tâm hồn nghệ sĩ nên tôi cảm thấy
chán nản quá, không còn hăng hái nữa.
Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng. Trong một xã
thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách xa nơi tôi ở 15 cây số, có một gia
đình địa chủ rất giàu, nắm trong gần năm trăm mẫu tư điền. Trước đây, ông địa
chủ đó giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước.
Ông thấy bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn nên ông
thường cho tá điền gánh gạo đến chỗ đóng quân để ủng hộ. Tôi là trưởng phòng
tuyên huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên phải thay mặt anh em ra cám ơn
tấm lòng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen
ngợi để vinh danh ông .
Thế rồi, một hôm, tôi nghe tin gia đình ông đã bị đấu tố.
Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha
chết nhưng bị đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách.
... Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé
cứ buổi chiều lại lén lút đứng núp bên ngoài cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường
Mai Anh Tuấn. Lúc gần tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem
luốc....
Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi
thăm và được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc
rưng rức và nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ
đói lòng, tối về ngủ trong chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy và
không biết ngày mai còn sống hay bị chết đói. Tôi suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết
định đem cô về làng tôi, và bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ.
Sự quyết định của tôi không lầm. Quê tôi nghèo, lúc đó
tôi còn ở trong bộ đội nên không có tiền, nhưng cô chịu thương chịu khó, bữa đói
bữa no… Cho đến bây giờ cô đã cho tôi 10 người con – 6 trai, 4 gái – và cháu nội
ngoại hơn 30 đứa!
Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường,
chẳng màng đến thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn
sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm
thơ...
Năm 1988, tôi "tái xuất giang hồ” sau 30 năm tự chôn và
bị chôn mình ở chốn quê nghèo đèo heo hút gió. Tôi lang bạt gần một năm trời
theo chuyến đi xuyên Việt do hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ
chức.
Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty Viek VTB
đột nhiên đề nghị mua bản quyển bài Màu
tím hoa Sim của tôi với giá 100 triệu đồng. Họ bảo đó là một hình thức bảo
tồn tài sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90
triệu, chia “lộc” cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu đồng,
phòng đau ốm lúc tuổi già, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang
tên Thơ Hữu Loan.
Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng
mua mấy bài thơ khác, nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để
bán".
Nhà
thơ Hữu Loan
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét