Thứ ba, 12/4/2016 | 06:06
GMT+7
|
Mười đề xuất của một doanh nhân với tân Bộ trưởng Giáo dục
Xoá bỏ độc quyền sách giáo khoa, phổ cập tiếng Anh, phát
triển dạy nghề... là những ý kiến của TS Lương Hoài Nam gửi đến tân Bộ trưởng
Giáo dục Phùng Xuân Nhạ.
- Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ: Mục tiêu của giáo dục không phải là bằng cấp / Giám đốc Đại học Quốc gia trúng cử Bộ trưởng Giáo dục
VnExpress giới thiệu bài
viết của TS Lương Hoài Nam - một doanh nhân trong lĩnh vực Hàng không cũng là
người nhiều năm quan tâm đến giáo dục trong nước và có hiểu biết về một số nền
giáo dục trên thế giới.
Cụm từ "tị nạn giáo dục" được nhắc đến không ít lần, kể
cả ở Quốc hội. Là một người dân với hai đứa con được cho sang Singapore và Anh
ăn học từ trung học, biết khá rõ về giáo dục cả ở Việt Nam lẫn ở các nước này,
tôi muốn đề xuất với tân Bộ trưởng Giáo dục mười nội dung sau đây.
TS Lương Hoài Nam.
|
Thứ nhất, cần xoá bỏ sự cào bằng
giữa các học sinh về nội dung giáo dục. Khi các con tôi học ở Singapore và Anh,
điều đầu tiên làm chúng tôi ngạc nhiên là số môn học giảm một nửa. Các cháu chỉ
học 6 môn thay vì 12 môn, trong đó có 3 môn bắt buộc cho luồng học được các cháu
chọn, 3 môn hoàn toàn tự chọn. Lý do là cả Anh và Singapore đều phân luồng giáo
dục ngay sau tiểu học 6 năm. Đức thậm chí phân luồng sớm hơn - sau lớp 4. Trung
Quốc giống Anh - phân luồng sau lớp 6. Đó cũng là tinh thần chung của Hệ thống
tiêu chuẩn quốc tế về phân loại giáo dục của UNESCO (ISCED 1997 và
2011).
Mỗi học sinh có các tố chất và điều kiện khác nhau. Xã
hội cũng cần người làm những công việc khác nhau. "Con cá" cần tập trung học
bơi, được đánh giá theo năng lực bơi và ra đời đi bơi. "Con chim" cần tập trung
học bay, được đánh giá theo năng lực bay và ra đời đi bay. Không thể dạy (và
đánh giá) "cá" và "chim" với các nội dung giáo dục giống nhau trong suốt 12 năm
học.
Thứ hai, cần
xoá bỏ cào bằng giữa các nhà trường về mô hình trường học. Cần tránh thay thế sự
rập khuôn này bằng sự rập khuôn khác. Thế giới có nhiều mô hình trường học tốt,
một số mô hình đang được áp dụng ở các trường quốc tế tại Việt Nam. Dù VNEN tốt
hơn mô hình trường học lâu nay ở ta, đừng quên rằng "Escuela Nueva" cũng chỉ là
một mô hình trường học cho các địa phương nông thôn, miền núi ở Columbia từ
những năm 70 của thế kỷ trước.
Ở các thành phố Columbia trước đây và hiện nay vẫn có
những mô hình trường học khác. Ngoài Mỹ La-tinh, chỉ có Việt Nam và Philippines
triển khai mô hình "Escuela Nueva" và vì vậy chúng ta cần thận trọng. Nên để cho nhà trường
(ít ra là các trường tư thục) lựa chọn mô hình trường học dựa trên bộ điều kiện
tối thiểu do Bộ Giáo dục quy định. Hãy để các mô hình trường học cạnh tranh với
nhau.
Thứ ba, cần xoá
bỏ cào bằng giữa các địa phương về chương trình giáo dục. Không thể có một
chương trình giáo dục vừa tốt nhất cho Hà Nội, vừa tốt nhất cho Hà Giang, do
điều kiện, nhu cầu của các địa phương này quá khác nhau. Cách làm phổ biến trên
thế giới là Bộ Giáo dục quy định chuẩn kiến thức, kỹ năng tối thiểu, các địa
phương tự xây dựng chương trình giáo dục. Nếu địa phương không đủ nguồn lực,
kinh nghiệm để làm việc này thì có thể thuê tư vấn, sử dụng chương trình của địa
phương khác, hoặc sử dụng chương trình giáo dục tham khảo của Bộ Giáo
dục.
Thứ tư, cần
thực sự xoá bỏ độc quyền sách giáo khoa. Vấn đề này về cơ bản đã được nhất trí,
nhưng việc thực hiện còn rất khó khăn, không phải không có những "rào cản kỹ
thuật". Singapore có 14 nhà xuất bản tham gia xuất bản, kinh doanh sách giáo
khoa, Bộ Giáo dục thẩm định và phê duyệt các bộ sách giáo khoa một cách trung
lập. Vai trò trong việc xoá bỏ độc quyền sách giáo khoa là của các nhà xuất bản
và tác giả sách giáo khoa làm việc với họ, không phải với Bộ. Nhà xuất bản không
bắt buộc phải cung cấp cả bộ sách giáo khoa cho tất cả các môn học, cấp học. Còn
việc chọn sách giáo khoa của nhà xuất bản nào là quyền của mỗi trường (do bộ môn
kiến nghị).
Thứ năm, cần
phổ cập tiếng Anh trong thời đại toàn cầu hoá. Trong chương trình giáo dục phổ
thông mới của Malaysia giai đoạn 2013-2025 (do UNESCO và OECD hỗ trợ), tiếng Anh
không còn được coi là "ngoại ngữ" nữa, mà là "ngôn ngữ hai". Trình độ tiếng Anh
trong học sinh, sinh viên Việt Nam đáng thất vọng, phần lớn thanh niên Việt Nam
không sử dụng thành thạo được tiếng Anh sau 12 năm học phổ thông và 3-5 năm cao
đẳng, đại học. Cần quy định tiếng Anh là ngoại ngữ bắt buộc, từ tiểu học đến đại
học; các thứ tiếng khác là ngoại ngữ 2, 3... Kém tiếng Anh thì rất khó hội nhập
quốc tế.
Thứ sáu, cần
phát triển mạnh mẽ dạy nghề. Phù hợp với chính sách phân luồng giáo dục, các
nước có nền giáo dục tiên tiến rất chú trọng dạy nghề. Dạy nghề là bộ phận không
tách rời của hệ thống giáo dục quốc dân. Một số nước có hệ giáo dục này sau tiểu
học và đa số các nước phát triển mạnh dạy nghề sau trung học cơ sở. Lớn nhất ở
Singapore không phải là trường đại học, mà là ITE (Institute of Technical
Education, là trường trung cấp nghề), với cỡ 40.000-45.000 học sinh, mỗi năm
tuyển vào trên dưới 25.000 học sinh.
Bình quân OECD, số người có trình độ cao đẳng và đại học
trong độ tuổi 25-64 tuổi chỉ chiếm 32%. Nước ta nên chuyển mảng dạy nghề từ Bộ
Lao động về Bộ Giáo dục để thống nhất một hệ thống giáo dục quốc dân và phát
triển mạnh mẽ dạy nghề; không nước nào tách dạy nghề khỏi Bộ Giáo dục như nước
ta cả.
Thứ bảy, cần
rút ngắn thời gian đào tạo thông qua phân luồng và liên thông. Vì không phân
luồng, nên học sinh Việt Nam phải học dài hơn. Để học hết cao đẳng, học sinh
phải học hết 12 năm phổ thông, 3 năm cao đẳng, thành 15 năm, bắt đầu đi làm ở
tuổi 22. Để hết đại học, tổng thời gian học là 16-17 năm, bắt đầu đi làm ở tuổi
23-24. Ở Singapore, để học hết cao đẳng, tổng thời gian học chỉ 13 năm và bắt
đầu đi làm ở tuổi 20, sớm hơn so với Việt Nam 2 năm. Để học hết đại học, tổng
thời gian học là 15 năm, ngắn hơn so với Việt Nam 1-2 năm. Nhiều sinh viên ở
Singapore học đại học hệ liên thông, với 3 năm cao đẳng cộng 1-2 năm đại học và
ra đi làm với bằng đại học ở tuổi 21-22. Ở Đức cũng vậy, nếu đi theo luồng cao
đẳng nghề, không nhất thiết phải học đủ 12 năm phổ thông như ở nước ta, mà chỉ
cần học hết lớp 9 hoặc lớp 10.
Thứ tám, cần
đổi mới dạy thêm. Học thêm là nhu cầu và nếu làm đúng thì rất tốt cho sự phát
triển giáo dục. Vấn đề là, như ở Hàn Quốc, Nhật Bản, dạy thêm phải được tổ chức
độc lập với giáo dục chính quy. Mỗi giáo viên chỉ được dạy trong một hệ thống,
không được vừa dạy chính quy ở trường, vừa dạy thêm ở trung tâm hoặc ở nhà. Mục
đích của học thêm, dạy thêm phải vì nhu cầu thực sự của học sinh, không phải là
để giải quyết nhu cầu cải thiện thu nhập của giáo viên hệ chính quy.
Việc tách giáo dục chính quy và dạy thêm là việc cần
thiết phải làm, với một lộ trình 3-5 năm, sau đó không chấp nhận việc giáo viên
đứng "chân trong, chân ngoài". Cần cải thiện thu nhập
cho giáo viên hệ chính quy, nhưng không phải bằng cách kết hợp dạy thêm. Những
giáo viên luyện thi giỏi có thể mạnh dạn rời biên chế nhà trường để chuyên dạy
luyện thi.
Thứ chín, cần
đổi mới thi cử, tuyển sinh. Việc hoàn thiện thi cử, tuyển sinh trong thời gian
qua là cần thiết, nhưng cũng cần thật sớm ổn định lĩnh vực này. Không có nước
nào mà năm nào cũng thay đổi cách thi cử, tuyển sinh như Việt Nam. Thế giới có
hai phương pháp tốt về thi cử, tuyển sinh: "tập trung" kiểu Anh (Singapore, Úc
áp dụng, với vai trò chủ trì của Bộ Giáo dục) và "phân tán" kiểu Mỹ (dựa trên
kết quả SAT, ACT, với vai trò quyết định và các điều kiện tuyển sinh bổ sung của
từng trường). Nước ta nên nghiên cứu kỹ và chọn lấy một cách làm cho đồng bộ và
bền vững.
Thứ mười, cần
đào tạo lại, nâng cấp đáng kể chất lượng giáo viên, giảng viên. Đây là vấn đề
lớn nhất, khó nhất, quyết định sự thành-bại của mọi nỗ lực cải cách giáo dục.
Không có cách nào khác là phải quy định lại chuẩn kiến thức, kỹ năng cao hơn
đáng kể đối với người dạy và có kế hoạch, chương trình đào tạo lại, nâng cấp
trình độ giáo viên, giảng viên với một lộ trình 3-5 năm. Giáo viên, giảng viên
nào sau khi được đào tạo lại mà vẫn không đáp ứng được chuẩn kiến thức, kỹ năng
phải bị đào thải. Chúng ta không thể cải cách giáo dục thành công với những
người dạy dưới chuẩn.
TS Lương Hoài
Nam
Thứ ba, 12/4/2016 | 06:06
GMT+7
|
Mười đề xuất của một doanh nhân với tân Bộ trưởng Giáo dục
Xoá bỏ độc quyền sách giáo khoa, phổ cập tiếng Anh, phát
triển dạy nghề... là những ý kiến của TS Lương Hoài Nam gửi đến tân Bộ trưởng
Giáo dục Phùng Xuân Nhạ.
- Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ: Mục tiêu của giáo dục không phải là bằng cấp / Giám đốc Đại học Quốc gia trúng cử Bộ trưởng Giáo dục
VnExpress giới thiệu bài
viết của TS Lương Hoài Nam - một doanh nhân trong lĩnh vực Hàng không cũng là
người nhiều năm quan tâm đến giáo dục trong nước và có hiểu biết về một số nền
giáo dục trên thế giới.
Cụm từ "tị nạn giáo dục" được nhắc đến không ít lần, kể
cả ở Quốc hội. Là một người dân với hai đứa con được cho sang Singapore và Anh
ăn học từ trung học, biết khá rõ về giáo dục cả ở Việt Nam lẫn ở các nước này,
tôi muốn đề xuất với tân Bộ trưởng Giáo dục mười nội dung sau đây.
TS Lương Hoài Nam.
|
Thứ nhất, cần xoá bỏ sự cào bằng
giữa các học sinh về nội dung giáo dục. Khi các con tôi học ở Singapore và Anh,
điều đầu tiên làm chúng tôi ngạc nhiên là số môn học giảm một nửa. Các cháu chỉ
học 6 môn thay vì 12 môn, trong đó có 3 môn bắt buộc cho luồng học được các cháu
chọn, 3 môn hoàn toàn tự chọn. Lý do là cả Anh và Singapore đều phân luồng giáo
dục ngay sau tiểu học 6 năm. Đức thậm chí phân luồng sớm hơn - sau lớp 4. Trung
Quốc giống Anh - phân luồng sau lớp 6. Đó cũng là tinh thần chung của Hệ thống
tiêu chuẩn quốc tế về phân loại giáo dục của UNESCO (ISCED 1997 và
2011).
Mỗi học sinh có các tố chất và điều kiện khác nhau. Xã
hội cũng cần người làm những công việc khác nhau. "Con cá" cần tập trung học
bơi, được đánh giá theo năng lực bơi và ra đời đi bơi. "Con chim" cần tập trung
học bay, được đánh giá theo năng lực bay và ra đời đi bay. Không thể dạy (và
đánh giá) "cá" và "chim" với các nội dung giáo dục giống nhau trong suốt 12 năm
học.
Thứ hai, cần
xoá bỏ cào bằng giữa các nhà trường về mô hình trường học. Cần tránh thay thế sự
rập khuôn này bằng sự rập khuôn khác. Thế giới có nhiều mô hình trường học tốt,
một số mô hình đang được áp dụng ở các trường quốc tế tại Việt Nam. Dù VNEN tốt
hơn mô hình trường học lâu nay ở ta, đừng quên rằng "Escuela Nueva" cũng chỉ là
một mô hình trường học cho các địa phương nông thôn, miền núi ở Columbia từ
những năm 70 của thế kỷ trước.
Ở các thành phố Columbia trước đây và hiện nay vẫn có
những mô hình trường học khác. Ngoài Mỹ La-tinh, chỉ có Việt Nam và Philippines
triển khai mô hình "Escuela Nueva" và vì vậy chúng ta cần thận trọng. Nên để cho nhà trường
(ít ra là các trường tư thục) lựa chọn mô hình trường học dựa trên bộ điều kiện
tối thiểu do Bộ Giáo dục quy định. Hãy để các mô hình trường học cạnh tranh với
nhau.
Thứ ba, cần xoá
bỏ cào bằng giữa các địa phương về chương trình giáo dục. Không thể có một
chương trình giáo dục vừa tốt nhất cho Hà Nội, vừa tốt nhất cho Hà Giang, do
điều kiện, nhu cầu của các địa phương này quá khác nhau. Cách làm phổ biến trên
thế giới là Bộ Giáo dục quy định chuẩn kiến thức, kỹ năng tối thiểu, các địa
phương tự xây dựng chương trình giáo dục. Nếu địa phương không đủ nguồn lực,
kinh nghiệm để làm việc này thì có thể thuê tư vấn, sử dụng chương trình của địa
phương khác, hoặc sử dụng chương trình giáo dục tham khảo của Bộ Giáo
dục.
Thứ tư, cần
thực sự xoá bỏ độc quyền sách giáo khoa. Vấn đề này về cơ bản đã được nhất trí,
nhưng việc thực hiện còn rất khó khăn, không phải không có những "rào cản kỹ
thuật". Singapore có 14 nhà xuất bản tham gia xuất bản, kinh doanh sách giáo
khoa, Bộ Giáo dục thẩm định và phê duyệt các bộ sách giáo khoa một cách trung
lập. Vai trò trong việc xoá bỏ độc quyền sách giáo khoa là của các nhà xuất bản
và tác giả sách giáo khoa làm việc với họ, không phải với Bộ. Nhà xuất bản không
bắt buộc phải cung cấp cả bộ sách giáo khoa cho tất cả các môn học, cấp học. Còn
việc chọn sách giáo khoa của nhà xuất bản nào là quyền của mỗi trường (do bộ môn
kiến nghị).
Thứ năm, cần
phổ cập tiếng Anh trong thời đại toàn cầu hoá. Trong chương trình giáo dục phổ
thông mới của Malaysia giai đoạn 2013-2025 (do UNESCO và OECD hỗ trợ), tiếng Anh
không còn được coi là "ngoại ngữ" nữa, mà là "ngôn ngữ hai". Trình độ tiếng Anh
trong học sinh, sinh viên Việt Nam đáng thất vọng, phần lớn thanh niên Việt Nam
không sử dụng thành thạo được tiếng Anh sau 12 năm học phổ thông và 3-5 năm cao
đẳng, đại học. Cần quy định tiếng Anh là ngoại ngữ bắt buộc, từ tiểu học đến đại
học; các thứ tiếng khác là ngoại ngữ 2, 3... Kém tiếng Anh thì rất khó hội nhập
quốc tế.
Thứ sáu, cần
phát triển mạnh mẽ dạy nghề. Phù hợp với chính sách phân luồng giáo dục, các
nước có nền giáo dục tiên tiến rất chú trọng dạy nghề. Dạy nghề là bộ phận không
tách rời của hệ thống giáo dục quốc dân. Một số nước có hệ giáo dục này sau tiểu
học và đa số các nước phát triển mạnh dạy nghề sau trung học cơ sở. Lớn nhất ở
Singapore không phải là trường đại học, mà là ITE (Institute of Technical
Education, là trường trung cấp nghề), với cỡ 40.000-45.000 học sinh, mỗi năm
tuyển vào trên dưới 25.000 học sinh.
Bình quân OECD, số người có trình độ cao đẳng và đại học
trong độ tuổi 25-64 tuổi chỉ chiếm 32%. Nước ta nên chuyển mảng dạy nghề từ Bộ
Lao động về Bộ Giáo dục để thống nhất một hệ thống giáo dục quốc dân và phát
triển mạnh mẽ dạy nghề; không nước nào tách dạy nghề khỏi Bộ Giáo dục như nước
ta cả.
Thứ bảy, cần
rút ngắn thời gian đào tạo thông qua phân luồng và liên thông. Vì không phân
luồng, nên học sinh Việt Nam phải học dài hơn. Để học hết cao đẳng, học sinh
phải học hết 12 năm phổ thông, 3 năm cao đẳng, thành 15 năm, bắt đầu đi làm ở
tuổi 22. Để hết đại học, tổng thời gian học là 16-17 năm, bắt đầu đi làm ở tuổi
23-24. Ở Singapore, để học hết cao đẳng, tổng thời gian học chỉ 13 năm và bắt
đầu đi làm ở tuổi 20, sớm hơn so với Việt Nam 2 năm. Để học hết đại học, tổng
thời gian học là 15 năm, ngắn hơn so với Việt Nam 1-2 năm. Nhiều sinh viên ở
Singapore học đại học hệ liên thông, với 3 năm cao đẳng cộng 1-2 năm đại học và
ra đi làm với bằng đại học ở tuổi 21-22. Ở Đức cũng vậy, nếu đi theo luồng cao
đẳng nghề, không nhất thiết phải học đủ 12 năm phổ thông như ở nước ta, mà chỉ
cần học hết lớp 9 hoặc lớp 10.
Thứ tám, cần
đổi mới dạy thêm. Học thêm là nhu cầu và nếu làm đúng thì rất tốt cho sự phát
triển giáo dục. Vấn đề là, như ở Hàn Quốc, Nhật Bản, dạy thêm phải được tổ chức
độc lập với giáo dục chính quy. Mỗi giáo viên chỉ được dạy trong một hệ thống,
không được vừa dạy chính quy ở trường, vừa dạy thêm ở trung tâm hoặc ở nhà. Mục
đích của học thêm, dạy thêm phải vì nhu cầu thực sự của học sinh, không phải là
để giải quyết nhu cầu cải thiện thu nhập của giáo viên hệ chính quy.
Việc tách giáo dục chính quy và dạy thêm là việc cần
thiết phải làm, với một lộ trình 3-5 năm, sau đó không chấp nhận việc giáo viên
đứng "chân trong, chân ngoài". Cần cải thiện thu nhập
cho giáo viên hệ chính quy, nhưng không phải bằng cách kết hợp dạy thêm. Những
giáo viên luyện thi giỏi có thể mạnh dạn rời biên chế nhà trường để chuyên dạy
luyện thi.
Thứ chín, cần
đổi mới thi cử, tuyển sinh. Việc hoàn thiện thi cử, tuyển sinh trong thời gian
qua là cần thiết, nhưng cũng cần thật sớm ổn định lĩnh vực này. Không có nước
nào mà năm nào cũng thay đổi cách thi cử, tuyển sinh như Việt Nam. Thế giới có
hai phương pháp tốt về thi cử, tuyển sinh: "tập trung" kiểu Anh (Singapore, Úc
áp dụng, với vai trò chủ trì của Bộ Giáo dục) và "phân tán" kiểu Mỹ (dựa trên
kết quả SAT, ACT, với vai trò quyết định và các điều kiện tuyển sinh bổ sung của
từng trường). Nước ta nên nghiên cứu kỹ và chọn lấy một cách làm cho đồng bộ và
bền vững.
Thứ mười, cần
đào tạo lại, nâng cấp đáng kể chất lượng giáo viên, giảng viên. Đây là vấn đề
lớn nhất, khó nhất, quyết định sự thành-bại của mọi nỗ lực cải cách giáo dục.
Không có cách nào khác là phải quy định lại chuẩn kiến thức, kỹ năng cao hơn
đáng kể đối với người dạy và có kế hoạch, chương trình đào tạo lại, nâng cấp
trình độ giáo viên, giảng viên với một lộ trình 3-5 năm. Giáo viên, giảng viên
nào sau khi được đào tạo lại mà vẫn không đáp ứng được chuẩn kiến thức, kỹ năng
phải bị đào thải. Chúng ta không thể cải cách giáo dục thành công với những
người dạy dưới chuẩn.
TS Lương Hoài
Nam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét